Tác phẩm đoạt giải

Bổ sung, phát triển nhận thức lý luận về vai trò và sứ mệnh của văn hóa trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - những thành tựu nổi bật

Trong bối cảnh hiện nay, làm rõ các vấn đề lý luận về văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đồng bộ, hài hòa làm nền tảng xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vừa làm rõ hơn bản chất, đặc trưng của chế độ xã hội chủ nghĩa, bổ sung nhận thức lý luận trong phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, vừa làm rõ hơn định hướng giải pháp quan trọng cho con đường phát triển đất nước trong thời gian tới.

Kỳ 1: Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc  - hệ tư duy lý luận xuyên suốt của Đảng về văn hóa

Đề cao các giá trị văn hóa, nhân văn cao đẹp đồng nhất với mục tiêu xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa mà toàn Đảng, toàn dân ta nỗ lực thực hiện

Văn hóa, đạo đức là hai vấn đề được Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh và gần đây là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đặc biệt coi trọng. Đây cũng được coi là nền tảng vững bền cho phát triển đất nước, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay. Các nhiệm kỳ đại hội gần đây (Đại hội XI, XII, XIII) đều đặt yêu cầu rất cao đối với xây dựng đạo đức, xây dựng văn hóa với toàn thể đội ngũ cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị, nhất là trong bộ máy cơ quan nhà nước, trong toàn xã hội. Trong bối cảnh xã hội hiện đại, hội nhập và khoa học - công nghệ phát triển, nhận thức về đạo đức, về văn hóa cũng có những bước chuyển biến quan trọng. Từ các đặc trưng truyền thống của văn hóa nói riêng, của xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN) nói chung, những đặc trưng văn hóa mới là hệ quả của sự giao thoa, của sự kết nối ngày càng chặt chẽ giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội từ chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội đã ngày càng định hình và được nhận thức là ngày càng gắn bó chặt chẽ hơn với các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội (CNXH), với các mục tiêu xây dựng CNXH ở nước ta. Nhận thức này đã được Hội nghị Trung ương 4 khóa VII (năm 1993) chỉ ra: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”(1). Gần đây, tầm quan trọng của điều này tiếp tục được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”(2). Từ dòng tư tưởng vận động mang tính quy luật đó, có thể thấy nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc mà chúng ta đang xây dựng là nền văn hóa có đặc trưng XHCN, nói cách khác đó là nền văn hóa XHCN.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trò chuyện với các đại biểu tham dự Hội nghị văn hóa toàn quốc tại Nhà Quốc hội, ngày 24-11-2021 _Nguồn: vietnamnet.vn
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trò chuyện với các đại biểu tham dự Hội nghị văn hóa toàn quốc tại Nhà Quốc hội, ngày 24-11-2021 _Nguồn: vietnamnet.vn

Trong gần 40 năm đổi mới, nhận thức về các vấn đề cốt lõi, căn bản về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam của Đảng ta ngày càng sáng rõ hơn. Từ năm 1991, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh 1991) của Đảng đã đưa ra 6 đặc trưng của mô hình CNXH. Năm 2011, Đại hội XI của Đảng đã bổ sung, phát triển toàn diện hơn với 8 đặc trưng(3). Các đặc trưng mới của CNXH được bổ sung cho thấy sự hiện diện ngày càng rõ nét các yếu tố văn hóa. Cương lĩnh 1991 đã đề ra những phương hướng cơ bản, trong đó cốt lõi là: Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa làm cho thế giới quan Mác - Lê-nin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chỉ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả dân tộc trong nước, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người. Chống tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ, trái với truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội. Cũng ngay từ năm 1991, Cương lĩnh đã đề ra những định hướng quan trọng về đường lối, chính sách phát triển văn hóa, khẳng định để đạt các mục tiêu phát triển đất nước, cốt lõi là phải dựa trên nền tảng văn hóa - xã hội. Cũng ngay từ thời kỳ này, thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa(4), Đảng ta luôn coi trọng, đề cao phát triển văn hóa, con người; chủ trương xây dựng và phát triển văn hóa, con người luôn song hành, đồng hành với định hướng xây dựng xã hội chủ nghĩa, coi văn hóa, con người là một bộ phận quan trọng, nền tảng trong định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” đề ra mục tiêu xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Các mục tiêu này không chỉ dừng lại ở phạm vi hẹp của văn hóa, mà đã gắn liền, thậm chí giữ vai trò quan trọng đối với xã hội, đối với sự phát triển, gắn liền với các mục tiêu bao trùm của đất nước. Đồng thời khẳng định, con người cũng là mục tiêu của phát triển, nên phải giải phóng con người, tạo điều kiện tốt nhất cho con người phát triển toàn diện.

Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”(5). Gần đây nhất, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khái quát lý luận về mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay với 8 đặc trưng, trong đó ngoài hai nội dung đề cập trực tiếp đến văn hóa, con người (có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc), thì các nội dung còn lại(6) cũng ẩn chứa, gián tiếp bao hàm các giá trị nhân văn, một xã hội luôn hướng đến các giá trị nhân văn, hướng đến bảo đảm cuộc sống hạnh phúc, phồn vinh. Tổng Bí thư cũng phân tích: “Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó cần và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội”(7). Rõ ràng, các đặc trưng văn hóa Việt Nam ngày càng thể hiện bản chất đích thực, vốn có của văn hóa là từ con người, vì con người và các chuẩn mực văn hóa, con người Việt Nam ngày càng tiếp cận, gắn liền với các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội.

Hệ tư duy lý luận xuyên suốt của Đảng về văn hóa - nền tảng để nhận diện, xác định rõ các vấn đề lớn trong từng giai đoạn, góp phần định hướng đường lối, chủ trương, cách thức, giải pháp

Qua hơn 93 năm lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo toàn dân xây dựng và phát triển đất nước, trong từng điều kiện, tình hình cụ thể khác nhau, hệ tư duy lý luận xuyên suốt của Đảng về văn hóa luôn là nền tảng quan trọng để Đảng ta nhận diện, xác định rõ các vấn đề lớn trong từng giai đoạn, từ đó định hướng đường lối, chủ trương, cách thức, giải pháp. Trong quá trình đó, các quan điểm, đường lối về văn hóa của Đảng đã được bổ sung, phát triển và ngày càng hoàn thiện, phù hợp với sự vận động, biến đổi của thực tiễn. Khái quát các quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng nền văn hóa từ khi thành lập Đảng đến nay, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Từ ngày thành lập đến nay, Đảng luôn luôn coi trọng vai trò của văn hóa và hết sức quan tâm đến công tác xây dựng văn hóa trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, nhất là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhận thức của Đảng về văn hóa ngày càng toàn diện, đầy đủ và sâu sắc hơn”. Về cơ bản, có thể chia thành hai mốc lớn: trước đổi mới và từ đổi mới (năm 1986) đến nay.

Ngay từ “Đề cương về văn hóa Việt Nam” năm 1943 - cương lĩnh văn hóa đầu tiên của Đảng đã đề cập đến văn hóa dưới góc nhìn toàn diện - “tư tưởng, học thuật, nghệ thuật”(8). Tư tưởng ở đây hàm ý cả định hướng chính trị. Đặt trong bối cảnh còn nhiều trí thức vẫn đang mơ hồ về con đường phát triển của đất nước, thì định hướng tư tưởng dẫn đường có ý nghĩa quan trọng. Từ thời điểm đó, Đề cương đã khẳng định “Nền văn hóa mà cuộc cách mạng văn hóa Đông Dương phải thực hiện sẽ là văn hóa xã hội chủ nghĩa”(9). Bên cạnh đó, định hướng văn hóa, văn nghệ phải gắn liền với bản sắc dân tộc, lợi ích dân tộc, vì dân tộc, người hoạt động văn hóa phải hiểu rõ nhiệm vụ, trách nhiệm cao cả của văn hóa, văn học, nghệ thuật là một bộ phận quan trọng cấu thành đời sống xã hội, có trách nhiệm xã hội, đặc biệt, những người hoạt động nghệ thuật không thể mãi sống trong “tháp ngà” nghệ thuật, phải thấu hiểu xã hội và có trách nhiệm xã hội là quan điểm hết sức mới mẻ lúc bấy giờ. Định hướng phương châm “Dân tộc, Khoa học, Đại chúng” cũng dẫn giải rõ hơn đường hướng phát triển của đất nước và định hướng phát triển văn hóa, văn học, nghệ thuật. Tinh thần phải làm cả cách mạng xã hội và cách mạng văn hóa, “Phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội”(10) cho thấy Đảng ta đã nhận thức rất sớm và chỉ rõ mối liên kết chặt chẽ giữa dân tộc và văn hóa, mối quan hệ giữa nhiệm vụ chung với nhiệm vụ phát triển văn hóa của Đảng. Tinh thần này cũng đồng nhất với quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải có con người xã hội chủ nghĩa và có tư tưởng xã hội chủ nghĩa(11). Lịch sử Việt Nam trước đó, chủ yếu nhận thức về văn hóa thuần túy trên khía cạnh tinh thần. Đến Đề cương về văn hóa Việt Nam - Cương lĩnh đầu tiên của Đảng về văn hóa, văn hóa chính thức được nhận thức trên chiều cạnh chính trị - xã hội và đặt trong mối quan hệ với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.

Tại Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh luận điểm “văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Luận điểm này làm rõ hơn vai trò của văn hóa trong đời sống xã hội, đặc biệt là ở vị trí dẫn đường, định hướng. Đây là nhận thức quan trọng, mở đường cho những quan điểm lớn về văn hóa và định hướng các giải pháp lớn cho sự phát triển văn hóa nói riêng và phát triển đất nước nói chung. Và với vai trò lãnh đạo, Đảng phải là lực lượng thấm đẫm tính văn hóa nhất, các đảng viên trong Đảng phải có phẩm chất đạo đức trong sáng nhất, “Đảng phải là đạo đức, là văn minh”.

Quá trình gần 40 năm đổi mới, cũng là quá trình các quan điểm, đường lối về văn hóa của Đảng có những bổ sung quan trọng và ngày càng gắn bó chặt chẽ hơn với các ngành, lĩnh vực, với mục tiêu xây dựng CNXH ở nước ta. Đại hội VI của Đảng (năm 1986) là Đại hội mở đầu công cuộc đổi mới. Đại hội đã coi nhiệm vụ ổn định và cải thiện từng bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân là nhiệm vụ quan trọng, gắn liền với ổn định tình hình kinh tế - xã hội. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội chỉ rõ: “Mỗi hoạt động văn hóa, văn nghệ đều phải tính đến hiệu quả xã hội, tác động tốt đến tư tưởng, tâm lý, tình cảm, nâng cao trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa và trình độ thẩm mỹ của nhân dân(12).

Những năm đầu sau đổi mới, mặc dù đã đạt được những thành tựu bước đầu quan trọng, nhưng đất nước vẫn còn rất nhiều khó khăn. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu tác động sâu sắc đến đời sống chính trị - xã hội. Tuy nhiên, trong bối cảnh đó, Đại hội VII của Đảng đã thông qua Cương lĩnh năm 1991, khẳng định kiên trì đường lối đổi mới, trong đó có đường lối đổi mới về văn hóa. Năm 1995, Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) - mở ra thời kỳ hội nhập với thế giới, và Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (năm 1998) đã ban hành Nghị quyết chuyên đề về “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ được tổ chức, hoạt động trên tinh thần xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh.

Có thể thấy, trong khoảng hơn 10 năm đầu đổi mới (từ năm 1986 đến năm 1998), những đổi mới trong tư duy lý luận về phát triển văn hóa của Đảng đã thể hiện tầm nhìn, sự bắt nhịp với xu thế thời đại, phù hợp với những định hướng của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) khi phát động “Thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa” (1988 - 1997).

Từ Đại hội IX đến Đại hội XIII, các quan điểm cơ bản, cốt lõi về văn hóa và phát triển văn hóa đã từng bước được nhìn nhận vừa sâu hơn, vừa rộng hơn trong mối quan hệ tổng hòa với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, và gắn với chủ thể đất nước, đó là con người. Từ quan điểm xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng văn hóa được gắn với xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực, có lòng nhân ái, khoan dung, có lối sống văn hóa, hài hòa trong quan hệ gia đình, cộng đồng và xã hội; gắn văn hóa với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, gắn với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế đã củng cố, bổ sung nền tảng định hình tư duy làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Về phương hướng phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ và khoa học; coi con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển được bổ sung từ Đại hội XI của Đảng năm 2011 và Nghị quyết số 33-NQ/TW (năm 2014) được coi là nhận thức quan trọng. Các nhận thức mới này cũng thể hiện sinh động mối quan hệ, sự gắn bó sâu sắc giữa văn hóa với dân tộc: văn hóa còn dân tộc còn, văn hóa mất thì dân tộc mất; giữa văn hóa với dân chủ và tiến bộ: văn hóa không chỉ là một giá trị được xã hội công nhận, mà còn là kết quả của dân chủ, là biểu hiện của xã hội tiến bộ, văn minh. Văn hóa và dân chủ hòa quyện, bổ sung nhau, con người, tổ chức thực hành văn hóa thì sẽ tạo nên dân chủ, và dân chủ ngày càng được nâng cao là quá trình tiến tới văn hóa, văn minh; giữa văn hóa với khoa học: trong xu thế các ngành, lĩnh vực có sự liên kết, ràng buộc, tác động qua lại ngày càng chặt chẽ, thúc đẩy cùng phát triển. Trong “dòng chảy” tự nhiên đó, văn hóa ngày càng ngấm sâu, lan tỏa trong các lĩnh vực đời sống, dần phát huy vai trò điều tiết xã hội, trở thành động lực, nguồn lực nội sinh cho phát triển; giữa văn hóa với đại đoàn kết các dân tộc: bản sắc văn hóa Việt Nam là thống nhất trong sự đa dạng văn hóa của 54 dân tộc anh em.

Tung kiệu ở lễ hội Đền Cờn, tỉnh Nghệ An (tác giả: Nguyễn Văn Đạo)_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn
Tung kiệu ở lễ hội Đền Cờn, tỉnh Nghệ An (tác giả: Nguyễn Văn Đạo)_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn 

Đứng trước những vấn đề lớn về văn hóa cần làm rõ về lý luận và những vấn đề lớn cần có giải pháp giải quyết trong thực tiễn, Đại hội XII nhất quán và nâng tầm, gắn nhiệm vụ xây dựng văn hóa, phát triển con người toàn diện với nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Từ mục đích phát triển văn hóa và con người gắn trực tiếp với nhiệm vụ phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc, tiêu chuẩn, tiêu chí đối với cán bộ các cấp cũng được cụ thể hóa trong Nghị quyết số 26/NQ-TW, ngày 19-5-2018, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”. Đến Đại hội XIII, với mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao, Đại hội đề ra các tiêu chí cụ thể, căn cốt đối với đội ngũ cán bộ, đặc biệt là với một số lĩnh vực đi đầu, tiên phong trong hội nhập quốc tế, “Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ am hiểu sâu về luật pháp quốc tế, thương mại, đầu tư quốc tế, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế, trước hết là cán bộ trực tiếp làm công tác hội nhập kinh tế quốc tế, giải quyết tranh chấp quốc tế”(13); “Nâng cao bản lĩnh, phẩm chất, năng lực, phong cách chuyên nghiệp, đổi mới sáng tạo của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế; chủ động thích ứng trước chuyển biến của tình hình”(14)...

Qua từng kỳ đại hội, nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa đã có những bước chuyển biến quan trọng. Đặc biệt, văn hóa trở thành nhân tố quan trọng, không chỉ được coi là là cơ sở nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu hướng tới, mà thực sự bước đầu đã trở thành nhân tố quan trọng trong quá trình phát triển, giữ vai trò là động lực thúc đẩy, được xác định là giải pháp đột phá cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế của đất nước. Đại hội XIII của Đảng là Đại hội đầu tiên Đảng ta đề cập một cách toàn diện và sâu sắc đến lĩnh vực văn hóa, từ chủ đề Đại hội đến các quan điểm, mục tiêu, định hướng lớn, nhiệm vụ trọng tâm, đột phá chiến lược. Đại hội XIII của Đảng bổ sung những tư duy, nhận thức quan trọng về văn hóa và phát triển văn hóa trong bối cảnh mới theo định hướng phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam, khơi dậy khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, nhân dân hạnh phúc, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, bảo đảm gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Đây là những định hướng thể hiện trực tiếp, đậm tính văn hóa.

Ngay trong nửa đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII, hàng loạt sự kiện, công việc đã được các cấp, các ngành triển khai như Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về lĩnh vực văn hóa với bài phát biểu quan trọng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã định hướng nhận thức, những vấn đề lớn, mới của văn hóa, định hướng giải pháp phát triển văn hóa trong thời kỳ mới.

Có thể thấy, Đảng ta luôn gắn phát triển văn hóa với phát triển con người và luôn gắn với định hướng chính trị, mục tiêu phát triển đất nước. Mục tiêu xây dựng con người vừa có bản lĩnh chính trị, có trình độ chuyên môn, vừa có sức khỏe, có tình cảm chân thành và đạo đức chính trực - đó chính là tổng thể khuôn mẫu, chuẩn mực con người văn hóa, con người XHCN. Mục tiêu xây dựng nền văn hóa vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng môi trường văn hóa, hệ thống thiết chế văn hóa với những yếu tố tích cực để tạo điều kiện tối đa phát huy, phát triển các giá trị văn hóa, con người; phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, xây dựng và phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa để gia tăng giá trị các di sản văn hóa, các sản phẩm văn hóa, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta chính là mục tiêu xây dựng nền văn hóa XHCN, đóng góp vào mục tiêu chung xây dựng CHXN ở Việt Nam. Nhận thức ngày càng toàn diện về văn hóa, con người và đề ra cách thức phát huy, phát triển các giá trị văn hóa, các nhân tố con người này là bước tiến quan trọng trong nhận thức của Đảng ta, đóng góp quan trọng vào hệ thống lý luận chung về đổi mới và phát triển toàn diện đất nước.

 

Kỳ 2: Xây dựng Đảng vững mạnh về văn hóa - nền tảng quan trọng để xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ

Qua các kỳ Đại hội, hệ thống lý luận về xây dựng Đảng ngày càng được bổ sung, hoàn thiện; là nền tảng quan trọng định hướng rõ hơn, cụ thể hơn, thúc đẩy nhanh, mạnh hơn công cuộc phát triển đất nước. Từ Đại hội IX (năm 2001) đến Đại hội XIII (năm 2021), Đảng ta luôn khẳng định phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Đây là những thành tố quan trọng, tạo nền tảng phát triển đồng bộ, toàn diện và bền vững đất nước trong giai đoạn hiện nay.

Qua nhiều kỳ đại hội của Đảng, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn được đặc biệt quan tâm. Đại hội III của Đảng (năm 1960) đã đề ra các nhiệm vụ xây dựng Đảng trên 3 mặt “tư tưởng, chính trị, tổ chức”. Năm 2016, để đáp ứng yêu cầu tình hình mới, khắc phục những hạn chế nảy sinh trong thực tiễn, Đại hội XII của Đảng bổ sung xây dựng Đảng về “đạo đức” thành một thành tố trong cấu trúc công tác xây dựng Đảng. Đại hội XIII, cũng xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn trong tình hình mới, Đảng ta đã đưa thành tố “cán bộ” trở thành một mặt quan trọng, cơ bản trong công tác xây dựng Đảng.

Như vậy, cấu trúc công tác xây dựng Đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay bao gồm 5 thành tố cơ bản là chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Đây là sự kế thừa, phát triển về nhận thức trong định hình cấu trúc về công tác xây dựng Đảng.

Chưa bao giờ, hoạt động xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn kết với các yếu tố văn hóa được thực hiện bài bản, tổng thể, toàn diện và quyết liệt như hiện nay. Về phía Đảng: ba nhiệm kỳ liên tục nghị quyết đại hội Đảng gắn công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng với xây dựng và thực hành các giá trị văn hóa, đạo đức; ba nhiệm kỳ liên tục ban hành 3 nghị quyết, kết luận(1) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đồng thời, liên tục ban hành các nghị quyết về chống tham nhũng(2) và quyết liệt chỉ đạo trong thực tiễn. Về phía Nhà nước: Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành một loạt nghị quyết, chương trình, quyết định, đề án(3); đặt ra các yêu cầu cụ thể về văn hóa trong hoạt động của tổ chức, doanh nghiệp, đơn vị đến từng cá nhân ở từng vị trí công tác. Về phía ngành văn hóa: được yêu cầu nghiên cứu, xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị con người Việt Nam thời kỳ mới để làm nền tảng và định hướng phát triển văn hóa, để văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần, là sức mạnh nội sinh, là sức mạnh mềm, để xây dựng đất nước phồn vinh, nhân dân hạnh phúc. Về phía cộng đồng, xã hội: được vận động xây dựng môi trường văn hóa xã hội trong sạch, lành mạnh, cùng với gia đình là cái nôi nuôi dưỡng con người phát triển toàn diện, đào tạo một thế hệ cán bộ vừa có năng lực, vừa có phẩm chất, hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích chung của đất nước.

Trong ba nhiệm kỳ liên tiếp gần đây (2011 - 2016, 2016 - 2021, 2021 - 2026), cùng với bổ sung các thành tố “đạo đức”, “cán bộ” vào cấu trúc công tác xây dựng Đảng, Đảng ta đã đồng thời ban hành hai nghị quyết và một kết luận quan trọng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong đó không những chỉ ra các biểu hiện xuống cấp về đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, mà còn khẳng định giải pháp quan trọng cho vấn đề này là phải thực hiện xây dựng Đảng vững mạnh về văn hóa để làm nền tảng cho xây dựng Đảng trên các lĩnh vực. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã chỉ ra thực tế có những biểu hiện xuống cấp về văn hóa, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Hội nghị Trung ương 9 khóa XI nhấn mạnh “Chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể; coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh…”(4). Hội nghị Trung ương 4 khóa XII cũng nhận định: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi…, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp nghiêm trọng”(5). Tại Đại hội XIII, công tác xây dựng Đảng với cấu trúc 5 thành tố “chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ” được nhấn mạnh với điểm mới là đồng thời với xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Liên tục ban hành nghị quyết, đồng thời đưa ra định hướng giải pháp tập trung vào xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đồng bộ, hài hòa không chỉ cho thấy những vấn đề trong thực tiễn đã hết sức cấp thiết, mà còn cho thấy sự quan tâm đặc biệt của Đảng đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, thể hiện bước phát triển quan trọng trong nhận thức lý luận về xây dựng Đảng, đặc biệt là những nhận thức mới về mối quan hệ giữa xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị với đạo đức và văn hóa; thể hiện tính thống nhất và đồng bộ trong chủ trương xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị và đường lối phát triển văn hóa thời kỳ mới; là giải pháp đồng bộ với các giải pháp khác đã và đang được Đảng ta mà đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng quyết liệt thực hiện.

Xét về nội hàm, thực hành các nguyên tắc xây dựng Đảng trên nền tảng văn hóa là nâng cao chất lượng, trình độ văn hóa trong tổ chức, hoạt động của Đảng trên tất cả các mặt về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Soi chiếu nội hàm văn hóa với từng thành tố có thể thấy:

Trong các cuộc đấu tranh, đấu tranh về chính trị, tư tưởng là cuộc đấu tranh thường xuyên, liên tục mà bất kỳ đảng cầm quyền nào cũng phải đối mặt với các phe phái, các thế lực thù địch cả trong thời chiến và thời bình. Và cuộc đấu tranh chính trị, tư tưởng, đấu tranh chống giặc nội xâm, chống “giặc ở bên trong”, chống lại các hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cũng chính là cuộc đấu tranh khó khăn, cam go, phức tạp nhất. Đảng ta xác định chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. Và bảo vệ nền tảng tư tưởng này là một trong những hoạt động của Đảng, trong một số bối cảnh, tình huống cụ thể được coi là nhiệm vụ quan trọng cấp bách, thậm chí hiệu quả của nhiệm vụ này có tác động đến sự tồn vong của Đảng.

Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng trong thời kỳ mới tập trung vào một số vấn đề cơ bản: Thứ nhất, kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu xây dựng CNXH; kiên định đường lối đổi mới; kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc trong công tác tổ chức và xây dựng Đảng; kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch… Thứ hai, ở quá trình xây dựng cương lĩnh, đường lối chính trị (ở cấp trung ương), và xây dựng chương trình, kế hoạch hành động cụ thể (ở cấp địa phương)… Thứ ba, ở quá trình nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, đúc kết và đưa ra những luận cứ khoa học để xây dựng cương lĩnh, định hướng đường lối xây dựng CNXH. Thứ tư, giáo dục, tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng là kiên định con đường đi lên CNXH, là phấn đấu vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vì cuộc sống hạnh phúc của người dân, vì sự phồn vinh của đất nước; xây dựng khối đoàn kết thống nhất từ nhận thức đến hành động trong đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Thứ năm, định hướng đấu tranh, lãnh đạo đấu tranh, giáo dục đấu tranh, trực tiếp đấu tranh phê phán các nhận thức lệch lạc, phản bác quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch...

Và để văn hóa làm nền tảng tức là phải xây dựng văn hóa trong các hoạt động chính trị, trong nhân cách của cán bộ, đảng viên. Người cán bộ, đảng viên phải được văn hóa soi đường, phải nhận biết rõ các giá trị nhân văn cao đẹp, nhận biết rõ đúng/sai, nhận thức đầy đủ, đúng đắn về CNXH và con đường đi lên CNXH, để thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ và có ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện, hoàn thiện nhân cách, chủ động phòng ngừa từ bên trong các nhận thức sai lệch, các nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”,… trên cơ sở đó mới có lý tưởng và sẵn sàng cống hiến vì lý tưởng, kiên định lý tưởng và kiên quyết đấu tranh bảo vệ lý tưởng trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, tình huống.

Cũng như văn hóa, bên cạnh tính Đảng là nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt, các nguyên tắc cơ bản của công tác chính trị - tư tưởng cũng phải bảo đảm tính dân tộc, khoa học, đại chúng và đặc biệt, còn mang tính nghệ thuật. Với bản chất cách mạng và khoa học, xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng phải được tiến hành bài bản, có kế hoạch, tôn trọng quy luật vận động biến đổi của tình hình chính trị và tư tưởng của con người dưới tác động của các yếu tố trong xã hội (tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội cả trong nước và trên thế giới), kết hợp xem xét ở các góc độ (từ các đặc điểm tầng lớp, đặc điểm dân tộc, đặc điểm địa lý, phong tục, tập quán, trình độ phát triển,… của từng đối tượng), từ đó trên cơ sở khoa học phân tích tình hình (căn cứ vào các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị, yêu cầu đòi hỏi trong từng thời kỳ,…), đưa ra cách thức tuyên truyền, nghệ thuật tuyên truyền, phương pháp vận động thích hợp có hiệu quả.

Trong cuộc đấu tranh chính trị, tư tưởng, đấu tranh trên lĩnh vực văn hóa, văn học, nghệ thuật có vị trí, vai trò hết sức quan trọng, bởi đây là các lĩnh vực có tác động mạnh mẽ, trực diện nhất đến tư tưởng. Nhìn lại thời kỳ đất nước đang chịu ách đô hộ của thực dân Pháp, ngay từ khi ra đời - năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định văn hóa là một mặt trận quan trọng, văn hóa, văn học, nghệ thuật là vũ khí đấu tranh cách mạng, góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy. Đây không chỉ là quan điểm, mà còn được khẳng định là nguyên tắc hoạt động, một phương thức đấu tranh của cách mạng Việt Nam, là phương thức phát triển văn hóa, văn học, nghệ thuật, đặc biệt là trong suốt tiến trình cách mạng dân tộc dân chủ. Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước, các tác phẩm văn học, nghệ thuật đã tạo ra động lực mạnh mẽ cho nhân dân miền Bắc phát triển sản xuất, thi đua xây dựng xã hội XHCN ở miền Bắc, chi viện cho tuyền tuyến miền Nam. Trong suốt những năm tháng ấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, văn hóa, văn học, nghệ thuật nước nhà đã có những dấu ấn rất đậm nét, đã góp phần quan trọng tạo động lực tinh thần to lớn để toàn Đảng, toàn dân chung sức đồng lòng vượt qua mọi khó khăn để sản xuất, chiến đấu và chiến thắng.

Đất nước đang trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH, với những khó khăn, thách thức lớn, nhiệm vụ xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng cần đặc biệt quan tâm đến một số vấn đề hiện nay đang nổi cộm trong tư tưởng cán bộ, đảng viên: Thứ nhất, tư tưởng bao cấp trong hoạt động kinh tế - đây là trở ngại lớn trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, kìm hãm sự năng động, sáng tạo, linh hoạt vốn là đặc tính cần trong hoạt động kinh tế; tư tưởng tăng trưởng bằng mọi giá dễ tạo ra nguy cơ đi chệch định hướng XHCN trong phát triển nền kinh tế. Thứ hai, tư tưởng vị vật chất, làm giàu từ lạm dụng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn - đây là nguyên nhân dẫn đến vô hình trung coi nhẹ các giá trị văn hóa, đạo đức, coi thường pháp luật. Thứ ba, tư tưởng dao động trước các luồng tư tưởng trái chiều của các thế lực thù địch - đây là nguồn cơn reo giắc sự hoài nghi vào sự lãnh đạo của Đảng, về CNXH, về con đường đi lên CNXH.

Một vấn đề liên quan đến tư tưởng cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân hiện nay, đang rất cần được làm rõ là sự xuất hiện tư tưởng hoài nghi vào chủ trương phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng ta. Mặc dù đa số ủng hộ chủ trương quyết liệt chống tham nhũng, tiêu cực, nhưng một bộ phận người dân bị ảnh hưởng “phản chính trị”, “phản tư tưởng” của các thế lực thù địch cho rằng việc chống tham nhũng làm nhụt chí, gây hiện tượng né tránh, nể nang, đùn đẩy trong giải quyết công việc, thậm chí “gây ra” hiện tượng nghỉ việc hàng loạt, “đóng băng” hoạt động trong một số cơ quan, làm chậm tiến trình phát triển đất nước. Đây là nhận thức hoàn toàn sai lệch, là biểu hiện của một số cán bộ, đảng viên thiếu bản lĩnh chính trị, thiếu một nền tảng văn hóa hiểu biết về sự phát triển và quá trình, quy luật của sự phát triển, là biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Thực chất đây chính là cuộc “thanh lọc” cán bộ một cách tự nhiên. Những thay đổi mang tính quy luật này là hoàn toàn bình thường, và việc tạo ra một độ trễ trong quá trình chuyển hóa là hết sức bình thường. Vượt qua giai đoạn này, khi đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và toàn thể người dân nhận thức rõ hơn trách nhiệm bản thân, quyền lợi cá nhân và lợi ích tập thể, lợi ích đất nước, lợi ích quốc gia - dân tộc thì chắc chắn rằng đất nước sẽ bước vào giai đoạn phát triển mới, không chỉ nhanh hơn, mà sẽ mạnh hơn, bằng chính nguồn lực nội sinh to lớn nhất - đó là những con người có trình độ, năng lực, có kỹ năng và đặc biệt là có tâm huyết với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, biết hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích quốc gia - dân tộc.

Để cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân hiểu rõ ý nghĩa, tác động sâu xa của công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, hiểu rõ chiêu bài của các thế lực thù địch gieo rắc “phản tư tưởng” đối với công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng ta hiện nay, công tác chính trị, tư tưởng cần phân tích, luận giải rõ những ảnh hưởng, tác động của chủ trương phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thời gian qua là sự phản ánh thực tiễn mang tính quy luật khi ban hành và thực thi một số chính sách đặc thù. Độ trễ chính sách chống tham nhũng chính là quá trình thẩm thấu, chuyển hóa - đó là ý thức về thượng tôn pháp luật đang ngấm dần vào từng cán bộ, đảng viên, người dân và vô cùng quan trọng là đang chuyển hóa vào trong từng hành động, hành vi của cả cá nhân và tổ chức. Sự chuyển hóa này cũng diễn ra từng bước - chuyển hóa từ nhận thức (biết phân biệt rõ đúng/ sai, tốt/ xấu, xóa bỏ tư tưởng tự biện minh cho hành động sai trái, vi phạm pháp luật là do cơ chế thị trường; nhận thức rõ, trước hết đó là do tính liêm chính của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị chưa cao, do những suy nghĩ lệch lạc, là do lòng tham vật chất, lòng tham quyền lực, sự thái quá trong hưởng thụ, trong thể hiện cái tôi), đến tư duy (phải thượng tôn pháp luật), đến hành động (phải soi xét hành động bản thân, điều chỉnh hành động, thậm chí phải định hướng hành động không được vượt khỏi phạm vi quy định pháp luật, nhất là trong thực thi công vụ,...). Đồng thời, cũng phải nhận thức rõ ràng việc có những ý kiến khác nhau đối với cùng một vấn đề không phải tất yếu là mất đoàn kết, không phải tất yếu dòng ý kiến mới hình thành là đúng. Trong những tình huống, trường hợp như vậy, phải nhìn nhận theo hướng, coi đó là vấn đề cần tranh luận và phải tổ chức tranh luận theo hướng đa chiều trên tinh thần khách quan khoa học, khách quan điều kiện nảy sinh vấn đề để hướng đến khách quan tư duy, khách quan hành động. Trong quá trình đó, thời gian là nhân tố quan trọng giúp vượt qua mọi sự quy chụp, tư duy áp đặt vội vàng, là nhân tố đưa vấn đề đến chỗ tường minh một cách tự nhiên nhất. Đây chính là những vấn đề, đòi hỏi, yêu cầu đặt ra đối với công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng hiện nay. Đó cũng chính là nhiệm vụ, là sứ mệnh của những người làm công tác tư tưởng, những người cầm bút, những nhà sáng tác văn học, nghệ thuật, như Tổng Bí thư đã nhấn mạnh “văn nghệ phải chiếu sáng cuộc sống, chứ không chỉ là nơi cuộc sống hiện hình; văn nghệ bồi dưỡng, nâng cao con người chứ không phải chỉ là nơi giãi bày tâm trạng cá nhân, hạ thấp con người”. Các văn nghệ sĩ cũng là các chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng và họ phải có “Khát vọng lớn lao, lý tưởng cao cả, hòa nhịp đập trái tim mình với nhịp đập trái tim toàn dân tộc, lăn lộn với thực tiễn phong phú, sôi động của cuộc sống nhân dân”,… để có  nhiều tác phẩm có giá trị cao hơn nữa về tư tưởng và nghệ thuật; phản ánh chân thực, sâu sắc, toàn diện hiện thực của đất nước ta trong thời kỳ đổi mới, hội nhập và phát triển và các tác phẩm hay là các “tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao. Nó phản ánh tâm hồn và tính cách dân tộc, những điều lớn lao, mạnh mẽ của con người và dự báo cho cả tương lai!”(6).

Xây dựng Đảng vững mạnh về văn hóa - nền tảng quan trọng để xây dựng Đảng vững mạnh về đạo đức

Xem xét ở góc độ chủ thể con người, dưới chiều cạnh xây dựng Đảng, đạo đức và văn hóa là hai phạm trù có nhiều điểm tương đồng. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói “Đảng là đạo đức, là văn minh”, xây dựng đạo đức đồng thời là hướng đến văn minh. Đạo đức là quá trình đi đến văn minh, văn minh là mục tiêu của thực hành đạo đức. Các chuẩn mực đạo đức là một bộ phận, một cấu phần của các giá trị văn hóa. Các tiêu chí, tiêu chuẩn, chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng cũng là một cấu phần góp tạo nên các giá trị văn hóa của cá nhân và tổ chức. Thời gian qua, vấn đề suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên có nguyên nhân từ những nhân tố văn hóa chưa thực sự được coi trọng, từ thực trạng các nhân tố mang tính kinh tế, vật chất có phần lấn át các nhân tố văn hóa trong đời sống xã hội.

Tuy nhiên, thời kỳ nhận thức về các giá trị trong một bộ phận có sự lệch chuẩn đã và đang dần qua đi, xu hướng nhận thức về các giá trị văn hóa, các chuẩn mực đạo đức đích thực trong cuộc sống ngày càng rõ ràng, đúng đắn hơn. Thậm chí, nhận thức về những hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn tham ô, tham nhũng, vi phạm pháp luật sớm muộn cũng bị pháp luật xử lý nghiêm minh đã dần đi vào ý thức người dân. Những chỉ dẫn, định hướng quan trọng thông qua các giải pháp bằng cả “xây” và “chống”. “Xây” là tập trung xây dựng, đề cao, coi trọng văn hóa, nhân văn, đề cao các giá trị chuẩn mực đạo đức trong xã hội; xây dựng văn hóa trong mọi hoạt động chính trị, trong quá trình xây dựng pháp luật, trong quá trình thực hiện dân chủ, thực thi pháp luật, trong quá trình phát triển kinh tế và ngay cả trong quá trình xây dựng và thực hiện chính sách văn hóa,… phải được xác định là nhiệm vụ căn bản, chiến lược, lâu dài. “Chống” là tập trung quyết liệt chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chống tham nhũng, tiêu cực, chống lợi dụng chức vụ, quyền hạn, chống chủ nghĩa cá nhân,… phải được coi là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, thường xuyên cũng dần trở thành công việc được các cấp, các ngành, địa phương nhận thức rõ và quyết liệt thực hiện.

Xây dựng Đảng vững mạnh về văn hóa - Nền tảng quan trọng để xây dựng Đảng vững mạnh về tổ chức và cán bộ

Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 16-7-1998, của Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã khẳng định: Để xây dựng và phát triển văn hóa trong xã hội, trước hết cần xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các tổ chức nhà nước. Với vai trò là bộ phận tiên tiến nhất, ưu tú nhất, văn hóa trong Đảng tất yếu cũng mang tính đặc thù. Đảng chỉ có mục đích là phục vụ nhân dân nên cán bộ, đảng viên phải làm tròn bổn phận “người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”; Đảng đề ra đường lối, chủ trương định hướng phát triển đất nước, nên cán bộ, đảng viên phải có ý thức tu dưỡng, bồi dưỡng bản thân đủ năng lực, trình độ, có trách nhiệm, ý thức tiên phong đi đầu trong công cuộc phát triển; Đảng đề cao đạo đức, văn hóa, đề cao tinh thần thượng tôn pháp luật, tinh thần nêu gương nên cán bộ, đảng viên phải nêu gương, có phong cách sống tự trọng và ứng xử đúng mực nơi công sở, nơi cư trú, với nhân dân; Đảng đề ra năm nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng là tập trung dân chủ; tự phê bình và phê bình; đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng; Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân; Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, nên cán bộ, đảng viên trong Đảng phải tự giác bồi đắp, tự làm giàu văn hóa bản thân, chủ động học hỏi, trang bị kiến thức, kỹ năng, bản lĩnh, đủ sức đáp ứng yêu cầu thực hành các nguyên tắc tổ chức và xây dựng Đảng, không để căn bệnh cá nhân chủ nghĩa lấn át, tự giác tự phê bình và phê bình trên tinh thần xây dựng, tạo đoàn kết, thống nhất trong từng tổ chức đảng. Trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ không được quan liêu, độc đoán, chuyên quyền. Giải quyết vấn đề phải trên nguyên tắc đúng quy định pháp luật, công tâm, công bằng, công khai, vì lợi ích tập thể với tinh thần khoan dung văn hóa. Mỗi cán bộ, đảng viên trong công việc cũng như trong sinh hoạt, ứng xử hằng ngày phải là một nhân tố văn hóa, là nhân tố lan tỏa văn hóa; ở cương vị người đứng đầu phải bảo đảm văn hóa được xây dựng và thực hành rộng rãi trong tổ chức, từ đó lan tỏa các giá trị văn hóa ra toàn xã hội.

Vận dụng các nguyên tắc vận động của văn hóa là dân tộc, khoa học, đại chúng vào xây dựng Đảng về tổ chức và cán bộ thấy, từng tổ chức, từng cán bộ phải làm việc trên cơ sở khoa học - hiệu quả thực chất, hướng đích vì nhân dân. Bộ máy phải được tổ chức khoa học, gọn nhẹ, bảo đảm hoạt động hiệu quả, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, bảo đảm phát huy vai trò các tổ chức trong hệ thống chính trị và quyền làm chủ thực sự của nhân dân. Nguyên tắc xây dựng tổ chức là không xuất phát từ ý chí chủ quan người lãnh đạo, mà phải có căn cứ khoa học - thực tiễn, từ chức năng, nhiệm vụ đơn vị và xuất phát từ yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn. Đối với cá nhân cán bộ, đảng viên, để hướng tới phong cách làm việc dân tộc, khoa học, đại chúng thì từng cán bộ, đảng viên phải đáp ứng những yêu cầu cụ thể về năng lực, trình độ và phẩm chất theo Nghị quyết số 26-NQ/TW(7), đó là những phẩm chất nền tảng để người cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới; đáp ứng các yêu cầu về lề lối làm việc, phương pháp làm việc, hiệu quả làm việc và đích hướng đến là phải đạt mục tiêu làm việc. Mục tiêu đó không chỉ đơn thuần là kết quả công việc được giao phó cho cá nhân, mà còn là mục tiêu cần đạt được chung của tổ chức, và không đi ngược mục tiêu chung là xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, mục tiêu xây dựng đất nước phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.

Nhìn chung, xây dựng đội ngũ cán bộ vững về chính trị, tư tưởng; sạch về đạo đức; cao về trình độ, năng lực; nghiêm về kỷ luật phải trên nền tảng thấm nhuần các giá trị văn hóa, đạo đức, phải phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, đồng thời kết hợp với những tinh hoa của thời đại, yêu cầu của thời kỳ mới trong bối cảnh đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

Kỳ 3: Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đồng bộ, hài hòa làm nền tảng vững bền cho xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Định hướng xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với các nhận thức về xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, dân tộc cường thịnh, trường tồn, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại mà Văn kiện Đại hội XIII đề cập  có ý nghĩa quan trọng đến sự thành công của công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay. Bởi, xây dựng và phát triển thành công nền văn hóa, phát triển toàn diện con người là nền tảng để xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, là cơ sở thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển bền vững, là đột phá(1) để hiện thực hóa mục tiêu phát triển đất nước trên chặng đường xây dựng CNXH ở nước ta.

Quan điểm Nhà nước pháp quyền XHCN được xây dựng trên cơ sở phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và xã hội dân chủ, công bằng, bình đẳng; và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và xã hội dân chủ, công bằng, bình đẳng cũng được xây dựng khi có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thật sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là luận điểm được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luận giải rõ trong tác phẩm Vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng, khó khăn nào cũng vượt qua(2) 

Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đồng bộ, hài hòa làm nền tảng vững bền cho xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN

Về bản chất và hình thái, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Khái niệm “Nhà nước pháp quyền XHCN” lần đầu tiên được nêu ra tại Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (năm 1991)(3), được kế thừa và phát triển tại các nhiệm kỳ đại hội sau. Cương lĩnh năm 2011 (Bổ sung, phát triển), Hiến pháp năm 2013 đều khẳng định Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân..., do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Thời gian qua, quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân đã đạt được thành tựu quan trọng. Trong thời gian tới, yêu cầu đặt ra là tiếp tục có những nghiên cứu, bổ sung theo hướng “Hệ thống pháp luật phải bảo đảm cho Nhà nước vận hành trôi chảy, vừa tiếp nhận, phát triển những giá trị đã được khẳng định của văn minh nhân loại, vừa phải phù hợp với những giá trị tốt đẹp của truyền thống Việt Nam, phù hợp với yêu cầu của chế độ ta, đất nước ta trong giai đoạn phát triển mới”(4). Đây được coi là vấn đề có tính nguyên tắc, rất hệ trọng, và cần quan tâm đến một số vấn đề:

Một là, kiên định lập trường và xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thể hiện đúng bản chất, đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa 

Bất luận trong hoàn cảnh nào, công cuộc xây dựng xã hội XHCN đều phải kiên định lập trường xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, bởi đây là một trong những trụ cột quan trọng nhất để vận hành xã hội phát triển theo định hướng XHCN. Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII, Ban Chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 9-11-2022, về “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”, trong đó khẳng định mục tiêu tổng quát là “Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”. Xét về bản chất, nhà nước pháp quyền XHCN là nhà nước được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, và đó là hệ thống pháp luật dân chủ, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN cũng đồng thời là giữ vững, phát huy tính nhân dân, tính dân chủ và nhân văn của Nhà nước XHCN Việt Nam. Đây cũng chính là bản chất ưu việt của chế độ XHCN mà Đảng ta, nhân dân ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn.

Hai là, lấy tính nhân dân, tính dân chủ và nhân văn làm chủ đạo để thực hiện tốt cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ

Tiếp cận từ góc độ thiết chế chính trị - pháp luậttrong điều kiện là Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lấy tính nhân dân, dân chủ, nhân văn làm chủ đạo, “Đảng vừa lãnh đạo hệ thống chính trị, vừa là thành viên, bộ phận của hệ thống chính trị”.  Mối quan hệ này thể hiện rõ ở một số vấn đề sau:

Thứ nhất, về tính nhân dân: Đảng, Nhà nước ta luôn xác định mục tiêu cao cả nhất là vì con người, mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước đều hướng tới mục tiêu phục vụ con người; chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân cũng là hướng tới bảo đảm mọi quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; Nhà nước là công cụ của nhân dân và thực thi quyền lực chính trị mà nhân dân giao cho. Nhà nước thông qua nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội, kiểm tra, kiểm soát và giám sát hoạt động của Nhà nước. Hoạt động của Nhà nước phải gắn công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong tổ chức, hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước với việc kiểm soát quyền lực nhà nước; thực hiện nghiêm túc các quy định về phòng, chống tham nhũng và các quy định pháp luật có liên quan; hoàn thiện khung khổ pháp luật để tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình ở các cơ quan, tổ chức, đơn vị hành chính. Lấy nhiệm vụ nâng cao trình độ, năng lực chung cho các tầng lớp nhân dân; củng cố nâng cao chất lượng hoạt động Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội làm cơ sở để người dân và các cơ quan đủ sức đảm đương chức năng, nhiệm vụ giám sát, phản biện.

Du khách trải nghiệm vẽ gốm Bát Tràng (tác giả: Vũ Chiến)_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn
Du khách trải nghiệm vẽ gốm Bát Tràng (tác giả: Vũ Chiến)_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn 

Đối với cán bộ, công chức, viên chức, yêu cầu thực hiện chức trách, nhiệm vụ trên tinh thần phục vụ nhân dân và ý thức liêm chính; loại bỏ thái độ vô cảm trước những bức xúc của nhân dân; loại bỏ mọi hành vi lạm dụng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để xâm phạm lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân.

Thứ hai, về tính dân chủ: bảo đảm để nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước. Nhà nước thực hiện mở rộng dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, gắn với kỷ luật, kỷ cương và tăng cường pháp chế. Nhà nước bảo đảm vai trò giám sát của người dân, bảo đảm quyền giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội là thực chất, hiệu quả. Trong xây dựng chính sách, pháp luật, phải minh bạch hóa quá trình chuẩn bị, soạn thảo, trình, ban hành chính sách, pháp luật của Nhà nước trên cơ sở thực hiện nghiêm túc, thực chất việc tham vấn ý kiến người dân, doanh nghiệp, các đối tượng liên quan đến chính sách...

Thứ ba, về tính nhân văn: xây dựng hệ thống quy định về đạo đức nghề nghiệp, áp dụng chế độ kiểm tra, kiểm soát thường xuyên, và kiểm tra đột xuất khi có hiện tượng, dấu hiệu vi phạm. Ngày 27-12-2018, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1847/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án Văn hóa công vụ, đây là một bước hiện thực hóa chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, là cơ sở quan trọng để thực hành văn hóa trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, thực hành liêm chính trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra hiện nay là tổ chức thực hiện, giám sát việc thực hiện và xử lý nghiêm minh đối với các biểu hiện, hành vi vi phạm. Phát biểu tại Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành tư pháp (28-8-1945 - 28-8-2015), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh “Nhà nước pháp quyền mà chúng ta đang xây dựng là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hệ thống pháp luật phải bảo đảm cho Nhà nước vận hành trôi chảy, vừa tiếp nhận, phát triển những giá trị đã được khẳng định của văn minh nhân loại, vừa phải phù hợp với những giá trị tốt đẹp của truyền thống Việt Nam, phù hợp với yêu cầu của chế độ ta, đất nước ta trong giai đoạn phát triển mới”. Như vậy, các giá trị văn hóa, nhân văn giữ vị trí, vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta. Điều này cũng đặt ra yêu cầu, đòi hỏi các chủ thể trong mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ bên cạnh năng lực, trình độ chuyên môn, phải thực sự có nền tảng văn hóa, phải có ý thức và mong muốn cống hiến cho đất nước, phấn đấu vì sự phát triển con người.

Ba là, lấy nguyện vọng và lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục tiêu xây dựng chính sách, pháp luật của Nhà nước

Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện, bảo đảm bình đẳng để tất cả công dân đều là chủ thể của quyền lực chính trị, là chủ thể của quá trình phát triển, chủ thể giám sát việc thực thi quyền lực và cũng là chủ thể hưởng thụ các thành quả của phát triển. Nhà nước tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm để mỗi người dân chủ động, tích cực sử dụng, thực hiện đúng đắn các quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân trong làm ăn, sinh sống, đóng góp sức người, sức của, năng lực và trí tuệ xây dựng, phát triển đất nước, thực hiện sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật(5). Để quá trình thực thi pháp luật thực sự đi vào cuộc sống, thực sự bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của công dân, mục tiêu, nội dung chính sách, pháp luật được đề ra phải trên cơ sở cụ thể hóa các quyền cơ bản của công dân, hiện thực hóa bản chất đặc trưng của CNXH, bao hàm các giá trị văn hóa phổ quát của các nhà nước trên thế giới, bên cạnh đó, có các giá trị riêng có, mang bản sắc dân tộc, phản ánh mong muốn, nguyện vọng của toàn thể nhân dân Việt Nam. Trong xây dựng chính sách, pháp luật các lĩnh vực chuyên ngành, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế cũng phải chú ý đưa các yếu tố văn hóa vào các quy định cụ thể và có biện pháp bắt buộc các chủ thể thực hiện nghiêm các quy định này.

Quan điểm cơ bản cần được nhất quán là quá trình xử lý những cá nhân, tập thể có sai phạm không chỉ là sự trừng phạt nghiêm minh đối với những hành vi sai phạm, mà còn là quá trình dựng xây một môi trường công bằng, một xã hội văn minh; quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, cũng đồng thời là quá trình từng bước nâng cao trình độ dân trí cho người dân, nâng cao trình độ phát triển của đất nước. Do đó, mọi công dân đều phải tự ý thức nâng cao trình độ hiểu biết, nắm vững và trên cơ sở đó thực thi nghiêm chính sách, pháp luật. Nhà nước pháp quyền chỉ thực sự được phát huy khi có sự quyết tâm “trên dưới đồng lòng”, “dọc ngang thông suốt”, có sự trong sạch, lành mạnh của bộ máy, của đội ngũ cán bộ ngành tư pháp và đặc biệt phải có sự ủng hộ của nhân dân. Công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đang được đẩy mạnh, việc xử lý nghiêm minh hàng loạt cán bộ cấp cao đã cho thấy những kết quả bước đầu rất quan trọng trên hành trình hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đồng bộ, hài hòa làm nền tảng vững bền xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 đã nêu “Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa)”, “không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa nữa”(6). Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa...”(7). Nhiều kỳ đại hội sau đó cũng đã khẳng định phải đặt văn hóa ngang hàng với chính trị, kinh tế, đặc biệt, trong những nhiệm kỳ gần đây, các quan điểm, định hướng mang tính chỉ dẫn cụ thể cách thức, phương pháp để văn hóa thực sự ngang tầm với chính trị, kinh tế được chỉ ra rõ nét. Hội nghị Trung ương 10 khóa IX (năm 2004) chỉ ra điều kiện bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước là dựa trên cơ sở phát triển đồng bộ cả ba lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa. Đại hội X của Đảng (năm 2006) tiếp tục nhấn mạnh mối quan hệ này và đặt ra yêu cầu: “Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân... Đặc biệt coi trọng nâng cao văn hóa lãnh đạo và quản lý, văn hóa trong kinh doanh...”(8). Nhiệm kỳ Đại hội XI có sự bổ sung quan trọng lý luận về văn hóa, trong đó đặc biệt coi trọng quan hệ giữa văn hóa với chính trị và kinh tế thông qua xác định hai nhiệm vụ mới xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế và một trong những định hướng trọng điểm là phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa. Đại hội XIII tiếp tục xác định hai nội dung cụ thể này. Có thể thấy, chủ trương đặt văn hóa ngang hàng với kinh tế, lồng ghép vào kinh tế, thậm chí làm động lực, làm mũi nhọn đột phá cho phát triển kinh tế thông qua phát triển các ngành công nghiệp văn hóa là nhận thức mới mẻ, phù hợp với xu hướng phát triển trong thời kỳ cách mạng khoa học - công nghệ, thời kỳ kinh tế tri thức mà kinh tế toàn cầu đang hướng tới. Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa là minh chứng sinh động của sự kết hợp giữa văn hóa với kinh tế, xã hội, khoa học - công nghệ, thông tin truyền thông,... Và hiệu quả mang lại chứng minh văn hóa không chỉ đem lại giá trị hưởng thụ tinh thần, mà còn mang lại giá trị kinh tế to lớn, mang lại sức mạnh mềm cho cả quốc gia - dân tộc, trở thành một trong các trụ cột quan trọng trong phát triển đất nước.

Văn hóa ngày càng có vị trí quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, ngày càng thẩm thấu, hòa quyện vào các ngành, lĩnh vực khác. Dựa trên các nguyên tắc vận động cơ bản của văn hóa là “dân tộc, đại chúng, khoa học”, các đặc trưng cơ bản của văn hóa được chuyển hóa, thẩm thấu vào nhận thức, hoạt động, hành vi từng cán bộ, đảng viên; thẩm thấu vào các lĩnh vực đời sống xã hội, vào toàn bộ hệ thống luật pháp, vào từng chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội,... Bên cạnh chính sách văn hóa, chính sách của các ngành, lĩnh vực khác cũng dần chú trọng đến các yếu tố văn hóa.

Quá trình phát triển lý luận của Đảng về văn hóa và văn hóa trong kinh tế ngày càng được bổ sung, hoàn thiện, nâng cao trên cơ sở quan trọng là văn hóa và kinh tế là một trong các trụ cột của phát triển, là một trong các mục tiêu quan trọng của quá trình phát triển, có mối quan hệ biện chứng hai chiều ngày càng rõ nét. Đó là sự tăng trưởng kinh tế phải tạo ra bước phát triển mới về văn hóa, không cho phép tăng trưởng kinh tế đơn thuần bất chấp hệ quả là các phản văn hóa; ngược lại, văn hóa phát triển phải thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tức là các giá trị văn hóa từ các di sản văn hóa vật thể đến phi vật thể cần được gìn giữ, phát huy, phát triển vì mục tiêu gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời phải hoàn thành nhiệm vụ gia tăng giá trị để đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, góp phần nâng tầm vị thế quốc gia, dân tộc trên thế giới.

Thực tế xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thời gian qua cho thấy một số vấn đề tồn tại liên quan đến văn hóa, cần được luận giải rõ hơn về mặt lý luận, góp phần định hướng chính sách cụ thể phù hợp hơn trong thực tiễn:

Thứ nhất, một trong những vấn đề luôn được đề cập đến khi nói tới những tác động mặt trái của kinh tế thị trường - đó là những tác động tiêu cực đến đạo đức, lối sống, đến nhận thức lệch lạc về các giá trị văn hóa, giá trị con người. Do đó, ở từng lĩnh vực phải đặc biệt chú ý:

Gìn giữ, phát huy các giá trị văn hóa làm “bộ lọc” cho môi trường chính trị - kinh tế.

Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chúng ta có nền kinh tế nhiều thành phần, bộ phận kinh tế nhà nước được giao quyền chủ động, năng động hơn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, đời sống người lao động được cải thiện; bộ phận kinh tế tư nhân phát triển nhanh và mạnh mẽ, tạo ra những cạnh tranh trên thị trường; bộ phận kinh tế đầu tư nước ngoài cũng được tạo điều kiện mở rộng, phát triển. Trong khi đó, cơ chế bao cấp về tài chính, bao cấp với một số sản phẩm mang tính đặc thù, cơ chế xin - cho vốn tồn tại một thời gian dài chưa hoàn toàn được cải thiện, hơn nữa, hệ thống pháp luật chưa thực sự chặt chẽ đã tạo ra những lỗ hổng,  trong một số trường hợp tạo ra sự thiếu công bằng trong môi trường hoạt động giữa các thành phần kinh tế; bên cạnh đó, công tác giáo dục tư tưởng chính trị chưa được quan tâm đúng mức; hệ thống cơ quan tư pháp chưa thực sự đủ mạnh; còn có hiện tượng một bộ phận cán bộ, đảng viên nhận thức không đầy đủ, thiếu đúng đắn về chức trách, nhiệm vụ, lạm dụng và lợi dụng chức vụ, quyền hạn, sách nhiễu người dân, tổ chức, doanh nghiệp để mưu lợi cá nhân, một bộ phận những người hoạt động kinh tế tìm mọi cách từ hối lộ đến gian lận,... để được hưởng những “cơ chế” đó. Vụ án Chuyến bay giải cứu, Đại án Việt Á là hai ví dụ về hệ quả, tồn dư của cơ chế xin - cho; của hiện tượng vì lợi ích vật chất bất chấp cả các quy định pháp luật, lấn át cả các giá trị nhân văn, đạo đức, tình người vốn là truyền thống quý báu của người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam. Trong bối cảnh đó, việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa làm “bộ lọc” để lành mạnh hóa môi trường chính trị - kinh tế có ý nghĩa quan trọng, cấp thiết.

Gìn giữ, phát huy các giá trị văn hóa làm “lá chắn” bảo vệ gia đình - các “tế bào” xã hội.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt(9). Phát triển nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa đã tạo ra những biến đổi trong cơ cấu xã hội, cơ cấu nghề nghiệp - việc làm, cấu trúc gia đình,... Từ quy mô gia đình nhiều thế hệ cùng chung sống đã chia thành quy mô gia đình hạt nhân. Từ những tác động bên ngoài, từ những vấn đề nội tại khi quy mô, cấu trúc gia đình thay đổi đã làm nảy sinh một số vấn đề, như tầm ảnh hưởng của người cao tuổi trong gia đình giảm sút, lối sống và giáo dục trong một số gia đình biến đổi, có hiện tượng phai nhạt các nét sinh hoạt văn hóa truyền thống, thậm chí là đảo lộn các giá trị truyền thống tốt đẹp, dẫn đến mối quan hệ giữa ông, bà - cha, mẹ - con cái (trong quy mô gia đình truyền thống) và mối quan hệ vợ - chồng, cha, mẹ - con cái (trong quy mô gia đình hạt nhân) không còn bền chặt. Đây là nguy cơ làm hỏng các “tế bào” và dễ dẫn đến bất ổn trong xã hội. Trong bối cảnh đó, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa gia đình tốt đẹp trở thành “lá chắn” bảo vệ “tế bào” của xã hội. Các “lá chắn” đó thể hiện ở “sự dạy bảo, khuyên nhủ”, nhưng cũng “phải có khuôn phép, gia phong, nền nếp (nếp nhà): Trên kính dưới nhường, tôn ty trật tự, không thể vô lễ, vô phép”. Và để gia đình thực sự là “thành trì của Tổ quốc” thì “Một làng, một xã, một dòng họ cũng có hương ước, quy ước, lệ làng; một cơ quan, một công sở phải có “Nội quy”; một tổ chức, đoàn thể phải có “Quy chế”, có “Điều lệ”(10).

Gìn giữ, phát huy các giá trị văn hóa làm lành mạnh môi trường xã hội.

Môi trường xã hội là môi trường mà con người là nhân tố chủ thể, trung tâm trong các quan hệ xã hội. Kinh tế, vật chất được coi trọng quá mức thì dễ dẫn đến những suy đồi trong xã hội, mà biểu hiện cụ thể ban đầu là những suy nghĩ lệch lạc, hành động phản cảm, những hiện tượng coi thường luật pháp, coi thường luân lý, đạo đức. Kinh tế phát triển, đời sống một bộ phận người dân được cải thiện, đồng thời cũng làm doãng rộng phân hóa giàu - nghèo, từ đó hình thành các phân khúc chi tiêu ở các mức độ khác nhau, hình thành nhiều tầng lớp trong xã hội với sự đa dạng về phong cách, lối sống, về thói quen sinh hoạt,... Và tầng lớp có điều kiện kinh tế nổi lên, tạo ra những trào lưu, xu hướng mới tác động, chi phối các quan niệm truyền thống về văn hóa, về các giá trị trong cuộc sống, làm cho các giá trị kinh tế có lúc, có nơi được đặt lên trên, lên trước các giá trị văn hóa, đạo đức. Internet, mạng xã hội tạo ra những kênh tiếp nhận văn hóa nhiều chiều từ các nền văn hóa khác, có những thời điểm còn mang tính dẫn dắt nhận thức và hành động, nhất là đối với thế hệ trẻ. Do đó, giữ gìn môi trường xã hội lành mạnh là tạo mạch nguồn tốt nhất nuôi dưỡng những chủ thể tương lai của đất nước.

Thứ hai, soi chiếu việc đưa yếu tố văn hóa vào quá trình phát triển các ngành, lĩnh vực, các chương trình, đề án phát triển kinh tế - xã hội cụ thể, thấy còn có những bất cập cần khắc phục.

Các đại hội gần đây đánh giá văn hóa phát triển chưa tương xứng với các lĩnh vực khác(11). Trong quá trình phát triển các ngành, lĩnh vực, các chương trình, đề án phát triển kinh tế - xã hội, ngay từ khi xây dựng chương trình, đề án,... đã chưa thấy sự hiện diện tương xứng của các yếu tố văn hóa. Các dự án phát triển kết cấu hạ tầng nhà ở, khu đô thị, các khu công nghiệp, khu chế xuất hình thành, nhưng chưa bảo đảm kèm theo các thiết chế văn hóa cần thiết bảo đảm nhu cầu sinh hoạt tinh thần cho người dân, cho công nhân. Đối với một số chương trình lớn có đưa vào quy định các yếu tố văn hóa như Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, thì các quy định quá cứng nhắc lại làm giảm hiệu quả trong thực tế. Ví dụ: hai tiêu chí về văn hóa trong xây dựng nông thôn mới(12) về cơ bản đã mang đến những tác động tích cực, cải thiện đời sống văn hóa tinh thần cho người dân ở nhiều vùng, miền trên cả nước, tuy nhiên  đối với một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số việc xây dựng cơ sở vật chất văn hóa, hệ thống thiết chế văn hóa chưa giữ được linh hồn, không gian sống, không gian văn hóa truyền thống vốn có từ nhiều thế hệ của đồng bào; chưa thực sự phù hợp với phong tục, tập quán sinh hoạt cộng đồng của bà con. Chúng ta luôn khẳng định bảo đảm tính thống nhất trong đa dạng của nền văn hóa Việt Nam, tôn trọng và hài hòa giữa bản sắc văn hóa dân tộc - quốc gia với sắc thái văn hóa dân tộc/tộc người, văn hóa địa phương, do đó, các chính sách ban hành rất cần được nhận thức, nắm bắt kịp thời, đặc biệt phải được triển khai thực hiện đúng, bảo đảm phù hợp quá trình tiếp biến văn hóa, có sự điều chỉnh linh hoạt phù hợp từng giai đoạn đối với từng khu vực, từng đối tượng cụ thể. Mặc khác, chính sách do nhà nước ban hành, nhưng để văn hóa thực sự trở thành nền tảng quan trọng, phát huy vai trò trong phát triển, các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có các thành tố văn hóa cần được nghiên cứu kỹ lưỡng, lấy ý kiến các nhà nghiên cứu văn hóa, hoạt động văn hóa trước khi ban hành để có chính sách phù hợp, hiệu quả. Và việc thực hiện phải được trao cho người dân, bởi xét đến cùng thì văn hóa là của nhân dân, do nhân dân sáng tạo nên và phục vụ cuộc sống nhân dân. Đây cũng là hiện thực hóa quan điểm về xây dựng nền văn hóa dân tộc, khoa học và đại chúng.

Xét về tổng thể, từ đổi mới đến nay, nền văn hóa Việt Nam đã chịu tác động không nhỏ từ mặt trái kinh tế thị trường, hệ quả là những biểu hiện lệch lạc trong nhận thức, hành vi, dù đó chưa phải là những biến đổi về chất. Tuy nhiên, nếu thiếu đi những định hướng XHCN nói chung và định hướng XHCN đối với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, đối với quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường thì những biến đổi này có thể đi theo hướng khác. Do đó, việc xác định rõ quan điểm, định hướng xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là định hướng căn bản, cốt lõi, quan trọng, và đặc biệt trong bối cảnh hiện nay xác định lấy xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đồng bộ, hài hòa làm nền tảng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN không chỉ bổ sung, làm rõ hơn, nội hàm, bản chất của văn hóa trong thời kỳ mới, mà còn làm rõ một cách toàn diện và sâu sắc hơn tác động, ảnh hưởng, khả năng điều tiết của văn hóa đối với phát triển xã hội nói chung và trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nói riêng. Quan điểm này đánh dấu bước chuyển quan trọng trong nhận thức về văn hóa và đường lối phát triển đồng bộ, hài hòa giữa văn hóa với chính trị, kinh tế, xã hội,... của Đảng ta.

Lan tỏa các giá trị văn hóa, khơi dậy ý thức, kết hợp đặt ra các yêu cầu hết sức cụ thể mang tính văn hóa trong hoạt động của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý; trong hoạt động của các cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước; trong phát triển kinh tế - xã hội là giải pháp căn cốt được Đảng ta và đặc biệt là người đứng đầu Đảng ta - Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hết sức coi trọng, đề cao. Những bài phát biểu tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về lĩnh vực văn hóa; phát biểu với những người làm văn hóa, văn nghệ; những bài viết về các vấn đề văn hóa, về hoạt động văn học, nghệ thuật của Tổng Bí thư không chỉ cho thấy tình cảm yêu mến, mà còn cho thấy sự quan tâm đặc biệt của Tổng Bí thư đến lĩnh vực văn hóa, văn học, nghệ thuật hiện nay; cho thấy những nhận thức lý luận quan trọng về mối quan hệ giữa văn hóa, văn học, nghệ thuật với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội; cho thấy đạo đức, văn hóa, văn học, nghệ thuật đã và đang được nâng lên một tầm cao mới, mà lịch sử đã chứng minh, khi văn hóa được đề cao, đạo đức được coi trọng, con người được phát triển toàn diện, được tạo điều kiện phát huy hết năng lực, sở trường thì thành tựu trên các lĩnh vực sẽ nở rộ, xã hội sẽ phát triển bứt phá.

Có thể thấy, quan điểm, nhận thức ngày càng toàn diện, sâu sắc hơn về vai trò và sứ mệnh của văn hóa trong phát triển, trong đó nổi bật là những nhận thức lý luận về văn hóa với chính trị, văn hóa với kinh tế, văn hóa với quản lý phát triển xã hội... đã đưa nhận thức về văn hóa và nhận thức về phát triển lên một tầm cao mới. Nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nhiệm vụ xây dựng văn hóa trong Đảng và trong hệ thống chính trị, nhiệm vụ phát triển kinh tế nhanh, bền vững theo hướng gắn bó chặt chẽ, hài hòa với tiến bộ, công bằng xã hội chính là hiện thực hóa, cụ thể hóa quan điểm, định hướng lấy xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đồng bộ, hài hòa làm nền tảng xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là những bổ sung nhận thức lý luận mới, quan trọng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam giai đoạn hiện nay./.

-------------------

(1) Trong đột phá chiến lược thứ hai đã nhấn mạnh: “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam”
(2) Xem: Nguyễn Phú Trọng: Vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng, khó khăn nào cũng vượt qua, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018, tr. 435 – 436
(3) Xem: Phan Trung Lý, Nguyễn Trung Thành: “Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 15 (415), tháng 8-2020
(4) Xem: Nguyễn Phú Trọng, Vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng, khó khăn nào cũng vượt qua, Sđd, tr. 436

(5) Xem: Phát biểu tại Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành tư pháp (28-8-1945 - 28-8-2015) của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Cổng Thông tin điện tử Quốc hội, ngày 25-8- 2015.

https://quochoi.vn/UserControls/Publishing/News/BinhLuan/pFormPrint.aspx UrlListProcess=/content/tintuc/Lists/News&ItemID=29962

(6) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 316

(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 12, tr. 470

(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 213

(9) Xem: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 300

(10) Xem:  Bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị toàn quốc các cơ quan nội chính, ngày 15-9-2021, https://vietnamnet.vn/toan-van-phat-bieu-cua-tong-bi-thu-tai-hoi-nghi-toan-quoc-cac-co-quan-noi-chinh-775144.html

(11) Xem: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2013; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016

(12) Bộ Tiêu chí quốc gia xây dựng nông thôn mới gồm 19 tiêu chí, trong đó, lĩnh vực văn hóa có 2 tiêu chí, gồm tiêu chí 6 (cơ sở vật chất văn hóa), tiêu chí số 16 (văn hóa).

Tác phẩm đoạt giải khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất