Tác phẩm đoạt giải

Thổi bùng khát vọng đưa nông nghiệp Việt Nam cất cánh

Trong mọi thời điểm, Đảng ta luôn xác định nông nghiệp, nông dân, nông thôn là 3 thành tố có quan hệ mật thiết, gắn bó, không thể tách rời; có vai trò, vị trí rất quan trọng trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, cần có sự đổi mới về nhận thức và tư duy trong sản xuất nông nghiệp, để phát triển nông nghiệp một cách bền vững, đúng với vai trò và vị thế, góp phần hoàn thành mục tiêu đưa nền nông nghiệp Việt Nam lên tốp đầu thế giới. Tạp chí Xây dựng Đảng trân trọng giới thiệu loạt bài 4 kỳ bàn luận về chủ đề này với tiêu đề “Thổi bùng khát vọng đưa nông nghiệp Việt Nam cất cánh” của nhóm tác giả: Nguyễn Trung Dũng - Cao Thị Phương, Đảng ủy Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam. 


KỲ 1: KHẲNG ĐỊNH VỊ THẾ “TRỤ ĐỠ” NỀN KINH TẾ

Trong những năm gần đây, với vai trò là “trụ đỡ” nền kinh tế, nông nghiệp đã và đang ngày càng được khẳng định trong thực tiễn phát triển đất nước, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, cung cấp nguồn nguyên liệu lớn cho ngành công nghiệp chế biến và xuất khẩu nông, lâm, thủy sản. Đảng, Nhà nước luôn nhất quán quan điểm xuyên suốt và đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, chiến lược quan trọng, khẳng định vai trò, vị thế của nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong tiến trình phát triển đất nước.

Khẳng định vị thế từ lịch sử đến… hiện đại

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng.

Quan điểm của Đảng về vai trò “nông nghiệp là trụ đỡ nền kinh tế” là sự kế thừa và phát triển lịch sử tư tưởng dân tộc, tư tưởng Hồ Chí Minh. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao vai trò của nông nghiệp. Người khẳng định vai trò của nông nghiệp “là gốc” và đã đặt nông nghiệp trong mối quan hệ thống nhất hữu cơ với ngành kinh tế khác.

Ngay sau khi giành được độc lập ngày 11-4-1946, trong Thư gửi điền chủ nông gia Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh”. Đây chính là quan điểm toàn diện, tổng quát của Hồ Chí Minh về vai trò của nông dân - nông thôn - nông nghiệp Việt Nam”.

Trong chỉnh thể nền kinh tế quốc dân, Người coi quan hệ công nghiệp - nông nghiệp là những trụ cột của nền kinh tế: “Công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển, như hai chân đi khỏe và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích”.

Hồ Chí Minh cũng luôn nhắc nhở: “Phải chú ý cả các mặt thương nghiệp, tài chính, ngân hàng, giao thông, kiến trúc, văn hóa, giáo dục y tế…” bởi nông nghiệp chỉ có thể phát triển và thực hiện được vai trò của nó khi có sự tác động của các ngành khác.

Vai trò là trụ đỡ của nông nghiệp đối với các ngành kinh tế thể hiện ở chỗ, nông nghiệp “cung cấp nguyên liệu, vật liệu để khôi phục tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, công nghiệp và cung cấp lâm thủy sản…”. Không những vậy, sự phát triển của nông nghiệp sẽ cung cấp các nguồn lực quan trọng để “mở rộng quan hệ buôn bán với các nước ngoài”, là điều kiện quan trọng để giải quyết nhiều vấn đề đối ngoại, vấn đề quan hệ quốc tế.

Đặc biệt, trong Di chúc thiêng liêng, Hồ Chí Minh vẫn dành sự quan tâm đối với người nông dân, lĩnh vực nông nghiệp và địa bàn nông thôn. Người “có ý đề nghị miễn thuế nông nghiệp 1 năm cho các hợp tác xã nông nghiệp để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất”.

Từ thực tiễn cho thấy, với vai trò là “trụ đỡ” nền kinh tế của nông nghiệp đã và đang ngày càng được khẳng định trong thực tiễn phát triển đất nước, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, bảo đảm sinh kế cho trên 60% dân số sinh sống ở khu vực nông thôn; chiếm 30% lực lượng lao động cả nước và chiếm tỷ trọng gần 12% tăng trưởng kinh tế (GDP).

Từ một nước kém phát triển về nông nghiệp, phải nhập khẩu lương thực, Việt Nam hiện nay trở thành một trong những nước xuất khẩu nông - lâm - thủy sản hàng đầu thế giới. Những năm gần đây, nông nghiệp ngày càng chuyển mạnh theo hướng sản xuất hàng hóa với quy mô, năng suất và chất lượng ngày càng cao; bảo đảm lương thực, thực phẩm cho gần 100 triệu dân và tăng mạnh xuất khẩu.

Đặc biệt, trong bối cảnh dịch COVD-19 diễn biến vô cùng phức tạp tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế toàn cầu và Việt Nam không nằm ngoài những tác động đó: nhiều lĩnh vực sản xuất, kinh doanh của các ngành nghề bị tác động nặng nề bởi đại dịch. Hàng ngàn nhà máy đóng cửa hoặc cắt giảm sản xuất. Ngành Du lịch “đóng băng”… Nhưng sản xuất nông nghiệp vẫn được duy trì, bảo đảm nguồn cung lương thực, thực phẩm, hàng hóa thiết yếu, là cơ sở quan trọng để thực hiện an sinh, an dân trong đại dịch, nhiều chỉ tiêu sản xuất, kinh doanh của ngành nông nghiệp vẫn đạt và vượt kế hoạch đề ra.

Nông nghiệp đã phát huy vai trò bệ đỡ của nền kinh tế, ổn định đời sống nhân dân và góp phần đẩy nhanh tăng trưởng ngành công nghiệp, thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước. Như vậy, quan điểm của Đảng coi nông nghiệp là “trụ đỡ” là sự vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, xuất phát từ chính thực tiễn sự phát triển nông nghiệp và những đóng góp của nông nghiệp đối với kinh tế đất nước.

Thay đổi tư duy, tạo động lực mới

Năm 2008, cả nước có 957,5 nghìn lượt hộ thiếu đói và 4 triệu lượt nhân khẩu thiếu đói. So với năm 2007, số lượt hộ thiếu đói tăng 32,3%, số lượt nhân khẩu thiếu đói tăng 32,7%. Tình trạng thiếu đói tập trung nhiều ở các tỉnh miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên. Trước vấn đề của thời cuộc là làm thế nào để nâng cao đời sống cho người nông dân, rút ngắn khoảng cách giữa nông thôn và thành thị, Hội nghị Trung ương 7, khóa X đã xác định vấn đề “Tam nông” là nhiệm vụ chính trị quan trọng. 

Ngày 5-8-2008, Nghị quyết số 26-NQ/TW về “Tam nông” đã ra đời. Đây là Nghị quyết mang tính lịch sử, Nghị quyết đầu tiên của Đảng đề cập toàn diện đến cả 3 lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn; trong đó khẳng định nông dân là chủ thể, xây dựng nông thôn mới (NTM) là căn bản, phát triển toàn diện nông nghiệp là then chốt. Để thực hiện Nghị quyết, năm 2009, Chính phủ đã ban hành Chương trình hành động gồm 3 chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG), nổi bật là hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM giai đoạn 2010-2020, 9 đề án quy hoạch và 36 đề án chuyên ngành.

Sau gần 15 năm triển khai thực hiện Nghị quyết, với sự vào cuộc tích cực của cả hệ thống chính trị và sự chung sức, đồng lòng, nỗ lực của toàn dân, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, toàn diện trên cả ba lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Nhiều chỉ số phát triển đã theo kịp và vượt các nước trong khu vực Đông Nam Á (ASEAN): Việt Nam đã trở thành quốc gia đứng đầu về sản xuất và xuất khẩu gạo, thuỷ sản, tôm, trái cây, thức ăn chăn nuôi; đứng thứ 5 trên thế giới, thứ 2 châu Á, thứ nhất Đông Nam Á về xuất khẩu lâm sản, hiện sản phẩm đồ gỗ của Việt Nam đã có mặt tại hơn 140 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Dẫu vậy, thời gian qua, nông nghiệp phát triển còn thiếu bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm, tổ chức sản xuất, kinh doanh chủ yếu vẫn dựa vào nông hộ nhỏ, thiếu liên kết; chất lượng, hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã chưa cao... Nguyên nhân bắt nguồn từ nhận thức về vị trí, vai trò của nông nghiệp, nông dân, nông thôn chưa thật đầy đủ, đúng mức, nên có lúc, có nơi cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền còn thiếu chủ động, trông chờ, ỷ lại, chưa sâu sát, quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị quyết.

Trước xu thế phát triển theo hướng CNH, HĐH sẽ đặt ra nhiều thách thức đối với sự phát triển của nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam, Đại hội XIII của Đảng đề ra những chủ trương lớn, tạo ra sự chuyển đổi mang tính cách mạng về tư duy trong nông nghiệp.

Thực hiện sáng tạo, hiệu quả những chủ trương và giải pháp được Đại hội XIII của Đảng đề ra, BCH Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16-6-2022 “về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” tạo nên động lực mới về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn với một thế hệ nông dân có tư duy đổi mới sáng tạo, tự lực, tự cường, khát vọng đưa đất nước trở thành nước phát triển theo định hướng XHCN.

Theo đó, nhận thức, tư duy trong cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân về tam nông tiếp tục được thay đổi, khẳng định vị trí thế mạnh của mình khi “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng - an ninh, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường, sinh thái của đất nước”.

Nghị quyết số 19-NQ/TW đã nêu bật những thành tựu to lớn của toàn Đảng, toàn dân ta sau gần 15 năm thực hiện Nghị quyết 26-NQ/TW, nông nghiệp tiếp tục phát triển cả về quy mô và trình độ sản xuất, duy trì tăng trưởng ở mức khá cao, khẳng định vị thế quan trọng, là trụ đỡ của nền kinh tế, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia.

Đặc biệt, Nghị quyết như luồng ánh sáng làm ấm lên những hoạt động đầu tư cho tam nông với mục tiêu: “Nông dân và cư dân nông thôn có trình độ, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng cao, làm chủ quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nông nghiệp phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia, quy mô sản xuất hàng hoá nông sản ngày càng lớn, bảo đảm môi trường sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu. Nông thôn phát triển toàn diện, có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại, cơ cấu kinh tế và hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, môi trường sống an toàn, lành mạnh, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững; tổ chức đảng và hệ thống chính trị ở cơ sở trong sạch, vững mạnh”.

Ngay sau đó, Chính phủ đã có Nghị quyết 26/NQ-CP ngày 27-2-2023 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW và chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện đồng bộ các chương trình, đề án và cơ chế chính sách, trong đó tập trung và nổi bật là Chương trình MTQG xây dựng NTM, Đề án cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững và Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững, nhằm giúp nông nghiệp chuyển biến mạnh mẽ, với việc phát triển kinh tế nông thôn theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, tích hợp đa giá trị, phát triển công nghiệp, dịch vụ nông thôn; tăng cường kết cấu hạ tầng nông thôn; cải thiện đời sống vật chất, tinh thần người dân nông thôn.

Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đặt mục tiêu cụ thể đến năm 2030, tốc độ tăng trưởng GDP nông, lâm, thủy sản đạt bình quân từ 2,5 đến 3%/năm, tốc độ tăng năng suất lao động nông, lâm, thủy sản đạt bình quân từ 5,5 đến 6%/năm; mở rộng và phát triển thị trường tiêu thụ nông sản, nhất là thị trường xuất khẩu. Tốc độ tăng giá trị xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt bình quân từ 5 đến 6%/năm… Đến năm 2050, Việt Nam sẽ trở thành một trong những nước có nền nông nghiệp hàng đầu thế giới với ngành công nghiệp chế biến nông sản hiện đại, hiệu quả, thân thiện với môi trường nông thôn Việt Nam không còn hộ nghèo và trở thành “nơi đáng sống”, văn minh, xanh, sạch, đẹp.

Với mục tiêu đó, chiến lược có rất nhiều điểm đổi mới mang tính đột phá quan trọng về thể chế và chính sách. Trong đó, thể hiện rõ đổi mới về tư duy, định hướng phát triển cho các ngành, các lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; thể hiện rõ tính toàn diện, bao trùm liên ngành trong định hướng và giải pháp để xây dựng nền nông nghiệp bền vững theo hướng sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân trí thức, văn minh.

Theo đó, sẽ chuyển đổi nông nghiệp từ việc tăng sản lượng sang nền nông nghiệp chất lượng, hiệu quả, nông nghiệp xanh, giảm khí thải, thích ứng biến đổi khí hậu; chuyển đổi tư duy sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, tích hợp đa giá trị, kết nối vùng miền, phát huy tối đa lợi thế địa phương. Về tổ chức sản xuất, lấy kinh tế hợp tác làm động lực để phát triển kinh tế hộ, gắn kết với doanh nghiệp xây dựng các chuỗi giá trị, hạn chế việc chỉ làm gia công. Đối với khu vực nông thôn, sẽ xây dựng NTM đi vào chiều sâu hơn song song với việc phát triển công nghiệp và kinh tế phi nông nghiệp tại nông thôn để thực hiện chủ trương “ly nông bất ly hương”, tiến tới xây dựng “nền kinh tế dịch vụ” ở nông thôn. Riêng đối với đội ngũ nông dân, chiến lược nhấn mạnh và nâng cao vai trò, vị trí chủ thể của người nông dân, khẳng định việc trao quyền cho người dân để họ trở thành lực lượng chính trong phát triển kinh tế - xã hội; từng bước hình thành đội ngũ nông dân chuyên nghiệp. Đồng thời có chính sách hỗ trợ để nông dân tại các vùng chuyên canh tham gia các chương trình đào tạo có chứng chỉ để sản xuất sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng và yêu cầu mới của thị trường trong nước và xuất khẩu.

Từ một nước kém phát triển về nông nghiệp, phải nhập khẩu lương thực, Việt Nam trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo đứng đầu thế giới. Ảnh minh họa.
Từ một nước kém phát triển về nông nghiệp, phải nhập khẩu lương thực, Việt Nam trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo đứng đầu thế giới. Ảnh minh họa.

Trao đổi về những kỳ vọng phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn từ chiến lược này, Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan cho biết: “Chiến lược kỳ vọng được lan tỏa để định vị đúng lại trong tâm thức lãnh đạo, người dân về vai trò, vị trí, sứ mệnh của nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Thực tế, tăng trưởng của nông nghiệp không thể nhanh, mạnh như tăng trưởng công nghiệp, dịch vụ nhưng chúng ta đừng nhìn vào con số mà xem nhẹ nó bởi dù con số nhỏ nhưng lại có vai trò, vị trí to lớn trong việc bình ổn xã hội vì hơn 60% dân số Việt Nam đang là nông dân và ở nông thôn. Chỉ khi định vị đúng vai trò, sứ mệnh nông nghiệp thì mới có thể tập trung phát triển; còn khi không quan tâm thì tất cả các nguồn lực sẽ chuyển sang khu vực khác. Hiện tượng dòng người từ nông thôn bỏ ruộng vườn đi làm ăn ở Đồng Nai, Bình Dương, Bắc Giang, Bắc Ninh…, rồi khi dịch COVID-19 xuất hiện và bùng phát thì đã diễn ra tình trạng một dòng người quay trở về nông thôn. Dòng người này có thể ở lại nông thôn, làm ăn và phát triển kinh tế nông nghiệp nhưng cũng có thể thấy hết dịch họ sẽ trở lại các thành phố lớn. Nếu không định vị lại được vị trí, vai trò, sứ mệnh của nông nghiệp, nông thôn thì vô hình trung chúng ta lại đẩy dòng người hồi hương này ra đi. Vì vậy, thông qua chiến lược, tôi cũng mong muốn các địa phương trong quá trình phát triển kinh tế cần cân nhắc, tập trung nhiều nguồn lực hơn cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn”.

Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam đang đứng trước những thời cơ mới để đổi mới, phát triển toàn diện và ấn tượng theo hướng tiếp cận dòng chảy, xu thế tiêu dùng của nền kinh tế toàn cầu, xu thế tiêu dùng xanh của thế giới. Bộ trưởng Lê Minh Hoan đã nhiều lần nhấn mạnh rằng, chúng ta cứ cân nhắc quá nhiều về cái giá phải trả khi thay đổi, mà quên tính đến cái giá phải trả khi chúng ta không thay đổi, chúng ta không làm gì. Thay đổi trong nông nghiệp cũng vậy, bây giờ, không còn sức ép bên trong, mà là sức ép toàn cầu thể hiện quyết tâm của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong nỗ lực chung nhằm hiện thực hóa chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, để nông thôn Việt Nam “mới” hơn, phát triển hơn; để nông dân thật sự chuyên nghiệp trong sản xuất và kinh doanh; để nông nghiệp thật sự trở thành một nghề - nghề “nuôi cái ăn chung” cho cả nước và cũng là nghề làm giàu cho đất nước hôm nay.

KỲ 2: TÌM RA NHỮNG “NÚT THẮT” TỪ NỘI TẠI

Thời gian qua, nông nghiệp tiếp tục phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia. Kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tích cực tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề nông thôn; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường, bộ mặt nông thôn có nhiều đổi mới, đời sống vật chất, tinh thần của nông dân và người dân nông thôn được cải thiện rõ rệt. Tuy vậy, bên cạnh những thành tựu đạt được, lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn còn cũng có những khó khăn, thách thức từ thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, biến động thị trường, biến chuyển xu hướng tiêu dùng ngày càng diễn biến phức tạp và khó lường.

Sự phát triển chưa bền vững

Sản xuất nông nghiệp nước ta phụ thuộc vào sử dụng nhiều tài nguyên, lao động, vật tư đầu vào; một số ngành còn phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu; sản xuất còn nhỏ lẻ, manh mún; tích tụ, tập trung ruộng đất cho phát triển sản xuất hàng hóa quy mô lớn chưa đạt yêu cầu. Tính bền vững chưa cao, hiệu quả sản xuất và giá trị gia tăng còn thấp, phụ thuộc nhiều vào diễn biến thị trường, nhất là một số thị trường nhập khẩu lớn. Chưa tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ trong thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động, giá trị gia tăng, phát triển bền vững. Tăng trưởng của ngành trong những năm gần đây có xu hướng giảm: Tốc độ tăng GDP toàn ngành nông nghiệp giai đoạn 1995-2000 đạt 4%/năm, giảm xuống còn 3,8%/năm (giai đoạn 2001-2005); 3,4%/năm (giai đoạn 2006-2010); 3,13%/năm (giai đoạn 2011-2015); 2,62% (giai đoạn 2016-2020) và 2,9% năm 2021 (bình quân giai đoạn 2008-2020 đạt 3,01%/năm), chưa đạt mục tiêu của Nghị quyết đề ra (3,5 - 4,0%/năm). Năm 2020, năng suất lao động nông nghiệp năm 2020 đạt 52,27 triệu đồng/người, chỉ bằng 44,52% năng suất lao động toàn xã hội. Năng suất lao động nông nghiệp của Việt Nam bằng 40% của Thái Lan, 30% của Trung Quốc.

Cơ giới hóa chưa đồng bộ, công nghiệp cơ khí, công nghiệp chế biến nông sản phát triển chậm: Sản phẩm chế biến là sơ chế có giá trị gia tăng thấp chiếm 70 - 85%; sản phẩm chế biến có giá trị gia tăng cao chiếm khoảng 15 - 30%, nhất là ở khâu bảo quản và chế biến sâu (năm 2020, tỷ lệ chế biến sâu chỉ đạt khoảng 40%). Tổn thất sau thu hoạch còn cao (khoảng 10 - 20% do thiếu cơ sở vật chất bảo quản đủ chất lượng), tỷ lệ hao hụt sau thu hoạch của lúa gạo 10 - 12% (trung bình của các nước khoảng 6 - 8%). Nông sản xuất khẩu thô, sơ chế, chưa có thương hiệu chiếm tỷ lệ cao.

Hệ thống logistics phục vụ nông nghiệp còn nhiều hạn chế, thiếu hệ thống kho lạnh, phương tiện vận tải lạnh... Xuất khẩu nông sản chưa bền vững, tình trạng ùn ứ nông sản xuất khẩu qua các cửa khẩu biên giới chưa được khắc phục. Xuất khẩu nông sản theo đường tiểu ngạch còn phổ biến và chưa chuyển mạnh sang xuất khẩu chính ngạch, dẫn đến tình trạng khó thông quan, ùn ứ tại cửa khẩu, gây thiệt hại về mặt kinh tế và ảnh hưởng tiêu cực đến người nông dân. Công tác quản lý an toàn thực phẩm, chất lượng vật tư nông nghiệp hiệu quả chưa cao; kiểm soát dư lượng kháng sinh, hóa chất trong sản xuất, bảo quản, chế biến nông sản còn nhiều bất cập; vẫn còn các vụ việc mất an toàn thực phẩm gây bức xúc xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến tiêu thụ và xuất khẩu nông sản. Khả năng thích ứng biến đổi khí hậu, chống chịu thiên tai trong sản xuất nông nghiệp còn hạn chế.

Ngoài ra, nông nghiệp Việt Nam còn chịu tác động lớn từ những vấn đề bất khả kháng của thiên nhiên và biến đổi khí hậu. Công tác dự báo, cảnh báo thiên tai, biến đổi khí hậu chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là đối với các loại hình thiên tai như lũ quét, lũ ống, sạt lở bờ sông, bờ biển, dông, lốc, mưa đá và sương mù trên biển.

Quản lý tài nguyên, thích ứng với biến đổi khí hậu còn nhiều hạn chế; ô nhiễm môi trường nhiều nơi gia tăng. Quản lý và khai thác tài nguyên chưa hiệu quả, thiếu bền vững. Nguồn lực đất đai chưa được phát huy, sử dụng còn lãng phí, kém hiệu quả. Chất lượng đất nông nghiệp bị suy giảm, sa mạc hóa ngày càng tăng; khoảng 20% diện tích đất nông nghiệp đang bị thoái hóa ở mức trung bình và nặng. Việc quản lý, sử dụng đất của các công ty nông, lâm nghiệp kém hiệu quả; tranh chấp, khiếu kiện diễn biến phức tạp, kéo dài, chưa xử lý dứt điểm. Năm 2020, còn 35,6% số công ty nông, lâm nghiệp chưa hoàn thành việc sắp xếp, đổi mới theo mô hình mới.

Chất lượng nguồn nước suy giảm do chất thải từ sản xuất công nghiệp, dịch vụ, dư lượng kháng sinh, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón hóa học... Ô nhiễm môi trường làng nghề, điểm công nghiệp, cơ sở sản xuất chế biến, cơ sở chăn nuôi… chậm khắc phục. Chất lượng đất ở nhiều nơi bị suy giảm do ảnh hưởng của chất thải công nghiệp, sinh hoạt, khu vực làng nghề, lạm dụng hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật và do thâm canh quá mức. Tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt chưa được xử lý còn cao.

Hầu hết các khu dân cư nông thôn chưa có hệ thống thu gom và xử lý nước thải sinh hoạt tập trung. Cả nước hiện còn 54% tổng số hộ, cơ sở sản xuất trong làng nghề tác động xấu tới môi trường ở các cấp độ khác nhau; chỉ có 423/1951 làng nghề (21,7%) có hệ thống xử lý chất thải, trong đó 16,1% làng nghề có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường; 20,9% số lượng làng nghề có điểm thu gom chất thải rắn công nghiệp. Chất lượng rừng bị suy giảm ở nhiều nơi; diện tích rừng ngập mặn bị thu hẹp. Nguồn lợi thủy sản bị khai thác quá mức cả trên vùng nước nội địa và trên biển.

Kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển

Hạ tầng kinh tế - xã hội Việt Nam còn thiếu đồng bộ; hạ tầng thương mại chậm phát triển, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn, thích ứng biến đổi khí hậu. Cơ sở vật chất, kỹ thuật và chất lượng dịch vụ y tế, giáo dục và văn hóa ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn còn thiếu và yếu.

Chương trình xây dựng nông thôn mới vượt mục tiêu đề ra nhưng chưa vững chắc, chất lượng chưa đồng đều giữa các địa phương, chênh lệch giữa các vùng, miền còn khá lớn (Đồng bằng sông Hồng: 99,2%; Đông Nam Bộ: 87,03%; miền núi phía Bắc: 42,51%; Tây Nguyên: 53,39%); vẫn còn 6 tỉnh thuộc khu vực miền núi phía Bắc có tỷ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới dưới 30% và 27 huyện nghèo, thuộc 18 tỉnh còn “trắng" xã nông thôn mới; một số địa phương còn chạy theo thành tích, chủ yếu tập trung đầu tư hạ tầng, chưa quan tâm đúng mức đến phát triển sản xuất, tạo việc làm, sinh kế bền vững cho người dân và phát triển văn hoá - xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái.

Quan hệ sản xuất chậm đổi mới. Các hình thức tổ chức hợp tác, liên kết sản xuất kinh doanh hiệu quả chưa cao. Kinh tế hộ quy mô nhỏ vẫn là chủ yếu; kinh tế trang trại, hợp tác xã phát triển chậm: Đến hết năm 2020, có 14.740/17.300 HTX nông nghiệp hoạt động hiệu quả; số này chưa đạt mục tiêu Quốc hội giao đến năm 2020 có 15.000 HTX, liên hiệp HTX nông nghiệp hoạt động hiệu quả; doanh nghiệp nông nghiệp phần lớn quy mô nhỏ, chưa phát huy được vai trò chủ đạo trong các chuỗi giá trị sản xuất. Năng lực và vai trò của các hiệp hội ngành hàng trong lĩnh vực nông nghiệp còn hạn chế. Công nghiệp và dịch vụ nông thôn chậm phát triển, nhất là ở các vùng miền núi, chưa tạo được động lực thúc đẩy khu vực nông nghiệp, nông thôn chuyển dịch nhanh hơn.

Bên cạnh đó, hạ tầng viễn thông phát triển chưa đồng đều, còn chênh lệch lớn giữa nông thôn, đô thị. Chỉ 38% tổng số hộ gia đình nông thôn có thể truy cập in-tơ-nét (bằng khoảng 1/2 so với khu vực đô thị): Tốc độ tải trung bình của in-tơ-nét băng thông rộng và mạng di động ở nông thôn lần lượt là 54,67 Mbps (Megabit/giây) và 33,12 Mbps, thấp hơn tốc độ 61,69 Mbps và 39,44 Mbps của đô thị (Báo cáo Digital tháng 1-2021 của We are Social, ITU).

Những bức xúc trong văn hóa, xã hội nông thôn

Theo quan điểm phát triển nông thôn (PTNT) hiện đại, bốn cột trụ: kinh tế, văn hóa - xã hội, môi trường và thể chế là động lực của PTNT, là những yếu tố phải đạt đến của một nông thôn phát triển và từ đó tạo ra được thành quả của PTNT là tăng trưởng và giảm nghèo bền vững. Các động lực của PTNT phải được hình thành và từ đó thúc đẩy tiến trình PTNT. Nói cách khác, tạo ra các động lực của PTNT cũng là các nội dung mà các chương trình PTNT phải nhắm vào để đạt được mục tiêu nâng cao chất lượng đời sống toàn diện cho cư dân nông thôn.

Với thành quả của công cuộc đổi mới hơn 36 năm qua, kinh tế - xã hội đất nước đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ, kéo theo đó là những thay đổi các giá trị văn hóa, đó là sự chuyển đổi từ văn hóa truyền thống sang văn hóa hiện đại của thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Đời sống văn hóa - xã hội ở nông thôn hiện nay đã có quá nhiều sự thay đổi so với thời kỳ trước đổi mới. Những giá trị truyền thống đang dần mất đi, thay thế vào đó là những giá trị mới trong lối sống thôn quê.

Ở nhiều vùng làng quê, nhất là ở những làng quê có tốc độ đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ, cuộc sống của người dân tuy giàu có hơn nhưng lối sống cũng biến đổi nhanh hơn, tệ nạn xã hội diễn ra phức tạp hơn, như cờ bạc, rượu chè, ma túy, mại dâm, bạo lực xã hội đen cùng với tệ nạn tham nhũng, “cường hào” địa phương. Thực tế đó đang là nỗi nhức nhối ở nhiều vùng quê vốn yên bình từ vài thập niên trước đó.

Phát triển văn hoá chưa được nhận thức sâu sắc và chưa được quan tâm một cách đầy đủ, chưa tương xứng với phát triển kinh tế, chưa thật sự trở thành sức mạnh, nguồn lực nội sinh của phát triển bền vững ở nông thôn. Các thiết chế văn hóa còn thiếu, nhiều nơi chưa phát huy tốt các cơ sở đã có để nâng cao đời sống tinh thần của người dân. Sự chênh lệch về hưởng thụ văn hoá giữa nông thôn với thành thị, giữa các vùng, miền còn lớn. Đời sống văn hoá ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và hải đảo còn nhiều khó khăn. Văn hóa truyền thống có lúc, có nơi bị mai một, pha tạp, làm xói mòn những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Tệ nạn xã hội nhiều nơi gia tăng, trật tự an toàn tiềm ẩn nguy cơ bất ổn, phát sinh nhiều vấn đề bức xúc. Chất lượng y tế, giáo dục ở nông thôn còn nhiều hạn chế, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo...

Nhiều tiềm năng về đổi mới sáng tạo còn bỏ ngỏ

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang có những tác động lớn đến ngành nông nghiệp Việt Nam. Việc ứng dụng những tiến bộ, thành tựu công nghệ của nhân loại vừa là cơ hội nhưng cũng là thách thức vô cùng lớn đòi hỏi ngành Nông nghiệp nước ta cần vượt qua.

Thực tiễn hiện nay cho thấy, nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ của Ngành chưa trở thành động lực chính tạo đột phá để phát triển nông nghiệp, nông thôn. Công nghệ chế biến ở trình độ trung bình so với thế giới, nhiều cơ sở chế biến sử dụng thiết bị cũ, công nghệ lạc hậu, năng suất thấp, hệ số đổi mới thiết bị chỉ ở mức 7%/năm. Đổi mới sáng tạo, phát triển kinh tế số chưa trở thành động lực mới cho đổi mới mô hình tăng trưởng Ngành. Thị trường khoa học và công nghệ chưa phát triển, chưa tạo sự gắn kết hiệu quả giữa nghiên cứu với sản xuất, kinh doanh.

Phát triển nông nghiệp công nghệ cao gặp nhiều khó khăn; ứng dụng khoa học - kỹ thuật trong trồng trọt, chăn nuôi nông hộ còn thấp. Chưa hình thành đồng bộ, đầy đủ các cơ sở dữ liệu lớn để phân tích và cung cấp thông tin về đất đai, thổ nhưỡng, khí hậu, vật nuôi, cây trồng, thị trường... một cách chính xác và hiệu quả phục vụ sản xuất nông nghiệp.

Khi nông nghiệp chưa thành sinh kế bền vững của người nông dân

Sinh kế của người nông dân Việt Nam gắn liền với các hoạt động nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp hiện đại, với những sinh kế bền vững sẽ giúp tăng thu nhập, cải thiện điều kiện sống cho người nông dân, là nền tảng vững chắc cho sự ổn định và phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.

Tuy nhiên, thực trạng lao động nông thôn nước ta hiện nay trình độ còn thấp, đang có xu hướng già hóa (nhóm tuổi từ 50 trở lên gia tăng từ 10,4% năm 2006 lên 15,2% năm 2011 và 26,9% năm 2020). Chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn tuy có bước cải thiện, nhưng hiệu quả chưa cao. Năm 2020, tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo (tính cả không có bằng cấp, chứng chỉ) đạt 44,5%, thấp hơn mục tiêu Nghị quyết đề ra là trên 50% Tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo có chứng chỉ và sơ cấp nghề trở lên từ 11,16% (2011) lên 15,87% (2016) và 24% năm 2020; lao động nông thôn qua đào tạo có văn bằng chứng chỉ đạt 10,03%.

Năng lực chủ thể của nông dân có một số mặt hạn chế, bất cập; Năng suất lao động nông nghiệp mặc dù đã được cải thiện, nhưng vẫn thấp hơn so với khu vực công nghiệp và dịch vụ: Năm 2020, năng suất lao động ngành nông, lâm, thủy sản đạt 52,27 triệu đồng/người, chỉ bằng 44,52% năng suất lao động xã hội. Khu vực công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn chậm phát triển, chưa tạo được nhiều việc làm; cơ cấu lại lao động nông thôn còn gặp nhiều bất cập. Chênh lệch thu nhập nông thôn và thành thị, giữa các vùng còn cao. Năm 2020, thu nhập bình quân/người/tháng ở nông thôn đạt 3,48 triệu đồng bằng 62,84% thu nhập ở khu vực thành thị (5,54 triệu đồng). Các vùng có công nghiệp phát triển nhanh gồm Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ có mức thu nhập bình quân cao hơn 1,3 - 2,2 lần so với các vùng còn lại. Thu nhập của nông dân và người dân nông thôn nói chung còn thấp. Đời sống của người trồng lúa, trồng rừng, bảo vệ rừng gặp nhiều khó khăn.

Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều ở nông thôn còn cao (năm 2020 là 7,1%), gấp 6,45 lần thành thị (năm 2020 là 1,1%). Xu hướng người lao động rời bỏ nông thôn đi tìm việc làm tại các đô thị, khu công nghiệp ngày càng tăng, làm phát sinh nhiều vấn đề xã hội. Đa số lao động rời khỏi nông thôn đi làm dưới dạng “không chính thức”, thiếu ổn định, chưa được bảo đảm đầy đủ quyền lợi. Kết quả giảm nghèo chưa bền vững, tỷ lệ tái nghèo bình quân chiếm 5,1% số hộ thoát nghèo.

Cơ hội tiếp cận nguồn lực, dịch vụ công về y tế, giáo dục, cơ hội phát triển của nông dân còn khó khăn, chưa tương xứng với những thành quả đổi mới, phát triển chung của đất nước; chênh lệch về khả năng tiếp cận giữa nông thôn với đô thị, giữa các vùng miền còn lớn, nhất là người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, biên giới, hải đảo.

Nông dân là đối tượng dễ bị tổn thương khi gặp thiên tai, dịch bệnh và bất ổn thị trường, tuy nhiên hệ thống an sinh xã hội chưa đáp ứng yêu cầu, hệ thống bảo hiểm (nhất là bảo hiểm nông nghiệp) chưa phát triển.

Có thể thấy tình trạng nông dân bỏ ruộng, không canh tác, sản xuất nông nghiệp trên đất nông nghiệp hiện nay ngày một tăng, gây lãng phí tài nguyên đất, ảnh hưởng không nhỏ tới ổn định xã hội và khó khăn lớn cho công tác hoạch định chính sách của các cơ quan nhà nước.

Theo thống kê của một số tỉnh ở về tình trạng này cho thấy, năm 2017, tỉnh Hà Nam chỉ có hơn 100ha ruộng bị bỏ hoang thì năm 2019, số diện tích bị bỏ hoang đã lên tới 310ha. Năm 2019, tỉnh Thanh Hóa có hơn 110ha ruộng bị bỏ hoang; tỉnh Thái Bình có hơn 1.200ha ruộng bị bỏ hoang; tỉnh Vĩnh Phúc, vụ mùa năm 2019 có hơn 1.000ha ruộng bỏ hoang và diện tích gieo trồng vụ đông năm 2019 của tỉnh này giảm tới 6.000ha.

Nguyên nhân chính về thực trạng này được nhận định là do sản xuất nông nghiệp rất vất vả, thu nhập thấp, phụ thuộc nhiều vào thời tiết nên giới trẻ thời nay rất ngại. Họ chọn đăng ký đi làm ở các nhà máy, xưởng sản xuất tư nhân hoặc tham gia vào các loại hình cung cấp dịch vụ để có giá trị thu nhập đều hơn, cao hơn. Đặc biệt, do biến đổi khí hậu, do giá trị từ sản xuất nông nghiệp của nông dân thấp hơn so với các lĩnh vực kinh tế khác nên không thu hút được lao động. Các loại dịch vụ làm đất, gặt hái và chi phí vật tư nông nghiệp gồm phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ... khá đắt đỏ nên giá trị công lao động trong sản xuất nông nghiệp không cao.  

Thực tế các địa phương nông thôn vùng Đồng bằng Bắc Bộ cho thấy, nhiều hộ gia đình đã chuyển đổi trồng lúa sang các loại cây trồng khác như cây ăn quả có múi, cây cảnh, rau hoặc nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi nhưng giá trị thu nhập cũng không cao và thiếu ổn định vì khủng hoảng thừa, nhu cầu tiêu thụ hạn chế và dịch bệnh.

Thay vì sản xuất nông nghiệp tại địa phương như trước đây, nhiều gia đình đã chọn giải pháp cho con em đi làm công nhân, tham gia vào cung cấp các loại hình dịch vụ phục vụ nhu cầu xã hội, canh tác lúa hạn chế, chỉ cung cấp đủ lương thực cho gia đình. Nhiều người kéo ra thành phố và các khu đô thị lớn để mưu sinh, trong đó phổ biến là làm các công việc phổ thông, nặng nhọc trong nghề xây dựng, đã khiến cho mật độ dân số khu vực đó tăng lên.

Tình trạng sản xuất “manh mún, nhỏ lẻ, tự phát”

Sản xuất nông nghiệp “manh mún, nhỏ lẻ, tự phát” là vấn đề lớn mỗi khi nhắc đến hạn chế của nông nghiệp Việt Nam. Đây không chỉ là điều cản trở đến việc áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật, nâng cao năng suất sản phẩm mà còn chính là lực cản làm giảm sức cạnh tranh của các mặt hàng nông sản trên thị trường quốc tế.

Sản xuất nông nghiệp manh mún, quy mô nhỏ nên quá trình triển khai thu mua nguyên liệu sản xuất của doanh nghiệp gặp không ít khó khăn. Bên cạnh đó, vì mang tính tự phát, chủ yếu tự thu hoạch nên năng suất thu hoạch còn hạn chế, đặc biệt là lúc vào chính vụ, không đủ năng lực, nhân lực nên gây khó khăn cho doanh nghiệp. Ngoài ra, tính tuân thủ quy trình trong sản xuất của bà con cũng là vấn đề hạn chế. Một số bà con chưa tuân thủ đồng đều các hướng dẫn nên có vườn đạt tiêu chuẩn, vườn chưa đạt tiêu chuẩn dẫn đến các rủi ro trong xuất khẩu nông sản sang các thị trường. Cũng chính sự manh mún, nhỏ lẻ, “mạnh ai nấy làm” dẫn đến người bán được hàng, người không. Đây cũng chính là vấn đề dẫn đến chưa tạo ra được nhiều vùng sản xuất lớn để có lợi thế xuất khẩu, nâng cao tính cạnh tranh của mặt hàng nông sản và tăng thu nhập cho người nông dân. Thực tế cho thấy, việc tập trung diện tích lớn đất, cùng áp dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất đã mang lại những kết quả nổi bật cho ngành Nông nghiệp.

Ngoài ra, giải pháp giải quyết thực trạng “manh mún” nông nghiệp được Văn kiện Đại hội XIII đề cập chính là tăng cường kinh tế hợp tác, kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã và tổ hợp tác. Vấn đề định vị lại hợp tác xã trong tiến trình cơ cấu nông nghiệp phải đặt ở một vị trí cao hơn và đưa ra nhiều quyết sách để chính hợp tác xã là mảnh ghép của kinh tế hộ cũng như có thể làm cầu nối giữa người sản xuất nhỏ lẻ với thị trường thông qua các doanh nghiệp. Trong thời gian vừa qua, chúng ta đã làm được một bước về vấn đề nâng cao chất lượng hoạt động của các hợp tác xã hay là nhận thức của cấp ủy, chính quyền về kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác.

Nhằm từng bước khắc phục sự manh mún, nhỏ lẻ, tự phát của sản xuất nông nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Đề án thí điểm xây dựng vùng nguyên liệu nông, lâm sản đạt chuẩn phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu giai đoạn 2022-2025 tại Quyết định số 1088/QĐ-BNN-KTHT ngày 25-3-2022. Đề án quyết tâm đạt mục tiêu: hình thành 5 vùng sản xuất nguyên liệu sản phẩm nông, lâm nghiệp quy mô hàng hóa tập trung, hiện đại, ứng dụng công nghệ tiên tiến trên cơ sở liên kết bền vững giữa các hợp tác xã nông nghiệp với các doanh nghiệp, chế biến, tiêu thụ nhằm thúc đẩy nhanh hiệu quả và bền vững quá trình cơ cấu lại ngành Nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới.

Trong giai đoạn 2022-2023, phấn đấu hình thành được 5 vùng nguyên liệu đạt chuẩn, quy mô tập trung với tổng diện tích khoảng 166.800ha gồm: cây ăn quả vùng miền núi phía Bắc, gỗ rừng trồng chứng chỉ bền vững vùng Duyên hải miền Trung, cà phê Tây Nguyên, lúa gạo vùng Tứ giác Long Xuyên, cây ăn quả vùng Đồng Tháp Mười. Qua đó, hình thành các chuỗi liên kết sản xuất, chế biến tiêu thụ sản phẩm giữa các doanh nghiệp, hợp tác xã và nông dân liên kết trong các vùng nguyên liệu. Đề án được triển khai trên 13 tỉnh trải dài trên cả nước hứa hẹn sẽ mang lại những đột phá cho sản xuất của nông nghiệp Việt Nam theo hướng hàng hóa.

Bên cạnh đó, chúng ta có thể thấy Việt Nam là quốc gia làm nông nghiệp nhưng lại phụ thuộc rất nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu từ phân bón, thuốc, nguyên liệu để chế biến thức ăn… Đây là vấn đề Thủ tướng Chính phủ đã giao cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phải làm sao nâng cao tính tự chủ của ngành nông nghiệp để tạo ra giá trị gia tăng cao hơn, giảm thiểu rủi ro về thị trường.

Về vấn đề này Thủ tướng Chính phủ đã giao cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phải làm sao nâng cao tính tự chủ của ngành Nông nghiệp để tạo ra giá trị gia tăng cao hơn, giảm thiểu vật sinh học; ứng dụng chuyển đổi số trong công tác quản lý hướng dẫn sử dụng thuốc bảo vệ thực vật tiết kiệm, hiệu quả, an toàn và có trách nhiệm. Đồng thời, cần tăng cường hợp tác công tư trong sản xuất và sử dụng phân bón hữu cơ, thuốc bảo vệ thực vật sinh học, sử dụng phân bón tiết kiệm nhằm hướng đến một nền nông nghiệp xanh, an toàn và nâng cao giá trị nông sản; nhân rộng các mô hình, đẩy mạnh công tác truyền thông, đặc biệt các mô hình canh tác giảm chi phí sản xuất nhưng vẫn bảo đảm năng suất, chất lượng nông sản phẩm; đẩy mạnh tổ chức lại các ngành hàng trong sản xuất nông nghiệp.

 

KỲ 3: “KIỀNG BA CHÂN” HÓA GIẢI NHỮNG ĐIỂM NGHẼN CỦA “TAM NÔNG”

Nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh là đặc trưng của mô hình nông thôn mới, phát triển hơn so với mô hình cũ, thể hiện sự tiến bộ về mọi mặt của quá trình phát triển nông thôn, tiến tới thỏa mãn ở mức tốt nhất các yêu cầu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, y tế, môi trường và thể chế chính trị ở nông thôn.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ “Nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh là định hướng xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam trong thời gian tới”. Theo đó, tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ trương cơ cấu lại nông nghiệp, phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng “nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh”, lấy “nông dân là trung tâm, nông nghiệp là động lực và nông thôn là nền tảng”.

Phát triển mô hình “nông thôn năng động – cộng đồng sáng tạo – Di sản gắn kết”

Nghị quyết số 26/NQ-CP về ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 tiếp tục khẳng định, nhấn mạnh và bổ sung nhiệm vụ của Chính phủ, các bộ, ngành, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để tổ chức thực hiện thắng lợi các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp tại Nghị quyết số 19-NQ/TW. Bên cạnh đó, cụ thể hóa và triển khai thực hiện quan điểm, chủ trương và giải pháp tại Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về phát triển: "Nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh".

Nhằm thực hiện đột phá chiến lược trong phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn; xây dựng nông thôn theo hướng hiện đại gắn với đô thị hoá; xây dựng đời sống văn hóa, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa khu vực nông thôn; phát triển công nghiệp, dịch vụ, du lịch, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, Chính phủ nêu rõ, sẽ tăng đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước, huy động mọi nguồn lực xã hội cùng tham gia đầu tư, hỗ trợ xây dựng nông thôn mới phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, quá trình đô thị hóa, nhất là ở các vùng có nhiều khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, miền núi, khu vực biên giới, hải đảo không để quá chênh lệch so với vùng nông thôn, ven đô thị; bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu tư, tăng cường giám sát các chương trình đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn.

Triển khai hiệu quả Chương trình phát triển du lịch nông thôn trong xây dựng nông thôn mới; trong đó tập trung nghiên cứu, đề xuất cơ chế chính sách, triển khai các giải pháp thu hút đầu tư, hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch gắn với tích hợp đa giá trị trong sản phẩm nông nghiệp; tăng cường xúc tiến quảng bá, thu hút khách du lịch về khu vực nông thôn. Xây dựng thí điểm và phát triển mô hình "Nông thôn năng động - Cộng đồng sáng tạo - Di sản gắn kết". Hiện tại, các địa phương có thế mạnh về nông nghiệp, bà con còn khai thác những giá trị gia tăng từ nông nghiệp, kết hợp văn hóa, du lịch... để tạo nên một điểm đến thu hút khách du lịch.

Điển hình như Mộc Châu - Sơn La nổi lên là một điểm sáng trong việc khai thác các sản phẩm nông nghiệp là thế mạnh của địa phương để phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng. Mộc Châu là cửa ngõ quan trọng kết nối Sơn La với các tỉnh vùng Tây Bắc với Hà Nội và vùng đồng bằng sông Hồng. Đây là nơi có nhiều điều kiện để phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng.

Với cảnh quan thiên nhiên phong phú, môi trường trong lành, khí hậu mát mẻ cùng ẩm thực dân tộc đặc sắc, Mộc Châu là một trong những điểm du lịch được yêu thích nhất khu vực Tây Bắc. Tận dụng lợi thế này, những năm gần đây, du lịch Sơn La đã phát triển du lịch cộng đồng, qua đó góp phần bảo vệ môi trường cảnh quan, đa dạng loại hình dịch vụ, đồng thời nâng cao thu nhập cho người dân địa phương.

Với lợi thế địa hình từ các sườn đồi và thung lũng bằng phẳng, đồng bào đã lập nên nhiều trang trại bò sữa, nhà vườn, cánh đồng hoa tam giác mạch, hoa cải, vườn chè… Ngoài ra, nhiều hộ còn xây mới, sửa chữa, tận dụng những ngôi nhà truyền thống là nhà sàn để làm nhà nghỉ cộng đồng hoặc mở nhà hàng, làm các món ăn địa phương phục vụ khách tham quan. Du khách đến với Mộc Châu được trải nghiệm cùng đồng bào hái quả, trồng rau sạch, quan sát quy trình chế biến các sản phẩm từ sữa bò, hòa mình vào những điệu xòe Thái, những điệu dân ca cổ, ngủ ở nhà sàn truyền thống, nằm đệm bông gạo, thưởng thức đặc sản núi rừng như: thịt trâu gác bếp, cá suối nướng, bê chao, xôi ngũ sắc, rau rừng… và không thể quên hương nồng của rượu ngô men lá. Đặc biệt, các hộ làm du lịch cộng đồng được tạo điều kiện tham gia các khóa tập huấn nghiệp vụ và kỹ năng du lịch. Để tăng thêm thu nhập, đồng bào còn duy trì và phát triển nghề dệt truyền thống với nhiều sản phẩm hấp dẫn như: khăn piêu, áo thổ cẩm, túi xách, rèm cửa, khăn tay…

Có thể thấy, mô hình "Nông thôn năng động - Cộng đồng sáng tạo - Di sản gắn kết" là hướng đi mới, lĩnh vực có tiềm năng phát triển rất lớn, phù hợp với điều kiện, định hướng phát triển kinh tế của nhiều địa phương, vùng miền và định hướng phát triển kinh tế của đất nước. Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả du lịch gắn với nông nghiệp bền vững, các cấp, các ngành và địa phương cần sớm xây dựng chiến lược phát triển du lịch nông nghiệp phù hợp với mô hình “tăng trưởng xanh”, gắn với đặc thù, khả năng của từng địa phương. Vấn đề là cần có cơ chế, chính sách cụ thể từ phía Nhà nước để khơi dậy sức dân, để phát triển du lịch nông nghiệp theo hướng phát triển bền vững của du lịch Việt Nam.

Theo các chuyên gia, việc phát triển du lịch nông nghiệp là phù hợp với xu thế thời đại, đáp ứng nhu cầu khám phá của đông đảo du khách. Tuy nhiên, muốn du lịch nông nghiệp phát triển cần giữ nguyên gốc, nguyên sơ, chất phác, chân thực của văn hoá bản địa, đó là giá trị cốt lõi của cộng đồng, không để đánh mất nó. Phát triển du lịch nông thôn thì phải có trách nhiệm với chính cộng đồng đó để phát triển kinh tế địa phương, tôn trọng những giá trị bản địa. Chỉ khi nào người nông dân thực sự được hưởng lợi từ sự phát triển du lịch của địa phương, lúc đó du lịch nông nghiệp mới phát triển bền vững, góp phần tích cực vào việc xóa đói, giảm nghèo.

Xây dựng nông thôn theo hướng hiện đại gắn với đô thị hóa

Triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 263/QĐ-TTg ngày 22-2-2022 phê duyệt Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025, Quyết định số 318/QĐ-TTg ngày 8-3-2022 ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới, Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021-2025 và Quyết định số 320/QĐ-TTg ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới, quy định thị xã, thành phố trực thuộc cấp tỉnh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới và Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021-2025.

Nhằm thực hiện đột phá chiến lược trong phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn; xây dựng nông thôn theo hướng hiện đại gắn với đô thị hoá; xây dựng đời sống văn hóa, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa khu vực nông thôn; phát triển công nghiệp, dịch vụ, du lịch, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, Chính phủ nêu rõ, sẽ tăng đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước, huy động mọi nguồn lực xã hội cùng tham gia đầu tư, hỗ trợ xây dựng nông thôn mới phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, quá trình đô thị hóa, nhất là ở các vùng có nhiều khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, miền núi, khu vực biên giới, hải đảo không để quá chênh lệch so với vùng nông thôn, ven đô thị; bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu tư, tăng cường giám sát các chương trình đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn.

Ưu tiên dành nguồn lực đầu tư phát triển, hiện đại hóa kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, nhất là hạ tầng tạo động lực tăng trưởng, hạ tầng thúc đẩy liên kết vùng, liên kết ngành, liên vùng (thương mại, logistic...), hạ tầng kinh tế số; hạ tầng thuộc các vùng khó khăn, khu vực chịu ảnh hưởng lớn bởi dịch bệnh, thiên tai, biến đổi khí hậu; bảo đảm cân đối hơn giữa các phương thức trong phát triển hạ tầng giao thông; Triển khai các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng thể chế quản lý và phân bổ vốn đầu tư công, trong đó ưu tiên lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Hoàn thiện hệ thống pháp luật quản lý đầu tư công phù hợp thông lệ quốc tế, bảo đảm đạt chất lượng tương đương trung bình các nước ASEAN-4, trong đó ưu tiên đổi mới cách thức lập, thẩm định, đánh giá và lựa chọn dự án đầu tư công.

Thu hút đầu tư từ các thành phần kinh tế vào nông nghiệp, nông thôn, bao gồm cả đầu tư theo hình thức đối tác công - tư (PPP) nhằm huy động mọi nguồn lực xã hội phát triển kết cấu hạ tầng và cung ứng dịch vụ công; đồng thời với nâng cao hiệu quả đầu tư từ ngân sách nhà nước; Xây dựng các phương án hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng, hoàn thiện quy hoạch đất đai và cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông thôn, ưu tiên tạo việc làm cho lao động nông thôn. Tạo điều kiện thuận lợi cho khởi nghiệp sáng tạo trong lĩnh vực nông nghiệp và khu vực nông thôn.

Tri thức hóa người nông dân

Xây dựng nông dân văn minh là vấn đề rất lớn, rất quan trọng như quan điểm của Đảng ta tại Nghị quyết số 19-NQ/TW, ngày 16-6-2022: “Nông dân là chủ thể, là trung tâm của quá trình phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới”.

Theo đó, gắn xây dựng giai cấp nông dân với phát triển nông nghiệp và quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá nông thôn. Nâng cao toàn diện đời sống vật chất, tinh thần của nông dân và cư dân nông thôn. Chú trọng xây dựng nông dân Việt Nam phát triển toàn diện, văn minh, yêu nước, đoàn kết, tự chủ, tự lực, tự cường, đổi mới sáng tạo, có ý chí, khát vọng xây dựng quê hương, đất nước phồn vinh, hạnh phúc; có trình độ, học vấn và năng lực tổ chức sản xuất tiên tiến, nếp sống văn minh, trách nhiệm xã hội, tôn trọng pháp luật, bảo vệ môi trường; được thụ hưởng những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, từng bước tiếp cận các dịch vụ của đô thị.

Để người nông dân đạt đến trình độ văn minh, đảm nhận được vai trò chủ thể, vị trí trung tâm thì phải có thời gian, có phương pháp, có bước đi tích cực cụ thể.

Theo đánh giá của Trung ương “thu nhập và đời sống vật chất, tinh thần của cư dân nông thôn không ngừng được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, số hộ khá và giàu tăng”. Tuy nhiên “đào tạo nghề, giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn còn nhiều bất cập, lao động nông thôn có xu hướng già hóa, năng suất lao động và thu nhập bình quân của cư dân nông thôn còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo còn cao, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số”.

Nâng cao vai trò, vị thế, năng lực làm chủ, cải thiện toàn diện đời sống vật chất, tinh thần của nông dân và cư dân nông thôn. Đây là điểm mới của Nghị quyết 19, nhấn mạnh vai trò chủ thể của nông dân và là nhóm giải pháp quan trọng hàng đầu, có tính quyết định đến sự thành công trong thực hiện Nghị quyết. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và chuyển đổi số, Nghị quyết đề ra các yêu cầu cao hơn trong việc nâng cao trình độ, nhận thức và bảo đảm quyền làm chủ của nông dân.

Người nông dân văn minh trước hết phải là người nông dân được tri thức hóa. Muốn vậy, cấp ủy đảng phải lãnh đạo cả hệ thống chính trị làm tốt công tác tuyên truyền, đào tạo, định hướng nghề nghiệp để mỗi người nông dân chuyển biến được nhận thức về vai trò chủ thể, có tâm thế tự chủ, có kiến thức, kỹ năng, năng lực, bản lĩnh làm chủ bản thân, làm chủ xây dựng, phát triển cộng đồng dân cư nông thôn.

KỲ CUỐI: CHỌN ĐỘT PHÁ TẠO ĐÀ “CẤT CÁNH” NÔNG NGHIỆP

Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển nhanh, bền vững kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam. Trong thời gian tới, Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn ngành Nông nghiệp cần thực hiện sáng tạo, hiệu quả những chủ trương, giải pháp đột phá tạo ra sự chuyển đổi mang tính cách mạng về tư duy trong nông nghiệp, nhằm phát triển một nền nông nghiệp hiệu quả, bền vững, tích hợp đa giá trị theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, năng lực cạnh tranh, gắn với đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến, bảo quản sau thu hoạch, phát triển, khẳng định vị thế nông sản Việt Nam ở cả thị trường trong nước và vươn tầm hàng đầu thế giới.

Thúc đẩy kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp

Xây dựng kinh tế tuần hoàn (KTTH) được Đại hội XIII của Đảng xác định là một trong những định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, theo đó, Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2021-2030 Việt Nam đã xác định chủ trương “phát triển kinh tế xanh, ít chất thải, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, các-bon thấp; khuyến khích phát triển mô hình KTTH để sử dụng tổng hợp và hiệu quả đầu ra của quá trình sản xuất. Nâng cao tính chống chịu và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu của hệ thống kết cấu hạ tầng và của nền kinh tế”.

Cụ thể hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, ngày 1-10-2021, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1658/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050, với mục tiêu giảm cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP; xanh hóa các ngành kinh tế. Mới đây nhất, Chính phủ tiếp tục ban hành Quyết định 687/QĐ-TTg ngày 7-6-2022 phê duyệt Đề án Phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam với mục tiêu: Phát triển KTTH nhằm tạo động lực cho đổi mới sáng tạo và cải thiện năng suất lao động, góp phần thúc đẩy tăng trưởng xanh gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng tăng cường hiệu quả, tính gắn kết tuần hoàn giữa các doanh nghiệp và ngành kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng chống chịu của doanh nghiệp và chuỗi cung ứng trước các cú sốc từ bên ngoài, nhằm góp phần đạt được thịnh vượng về kinh tế, bền vững về môi trường và công bằng về xã hội; hướng tới nền kinh tế xanh, trung hỏa các-bon và đóng góp vào mục tiêu hạn chế sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu.

Những chủ trương, chính sách này đã bước đầu định hướng và góp phần khuyến khích, thúc đẩy các mô hình KTTH trong nông nghiệp tại Việt Nam, theo đó, KTTH trong lĩnh vực nông nghiệp sẽ hình thành quá trình sản xuất khép kín thông qua ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào tái chế các chất thải, phụ phẩm để làm nguyên liệu đầu vào cho quá trình sản xuất, chế biến nông, lâm, thủy sản, từ đó tạo ra các sản phẩm chất lượng cao, an toàn, thân thiện môi trường, hướng tới nền nông nghiệp xanh trong tương lai gần. Phát triển KTTH trong bối cảnh hiện nay đang là xu thế chung để phát triển kinh tế xanh và bền vững.

Thực tế tại Việt Nam hiện nay, đã có nhiều mô hình KTTH trong nông nghiệp, điển hình như: Tạo và dùng khí đốt từ chất thải, nước thải trong chăn nuôi, trồng trọt; mô hình kết hợp trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản; mô hình nông - lâm kết hợp; mô hình vườn - rừng; mô hình tuần hoàn lấy phế phụ phẩm trong nông nghiệp làm chất xúc tác hoặc tạo ra các sản phẩm có giá trị khác; mô hình tiết chế hóa, gắn liền với việc hạn chế sử dụng phân hóa học, thuốc trừ sâu, thuốc thú y, thuốc tăng trưởng trong trồng trọt và chăn nuôi.

Trong đó, một số mô hình cụ thể đang triển khai và mang lại hiệu quả cao như: mô hình vườn - ao - chuồng; mô hình lúa - tôm, lúa - cá; mô hình trồng lúa - trồng nấm - sản xuất phân hữu cơ - trồng cây ăn quả; mô hình sản xuất phân hữu cơ từ chất thải nông nghiệp; mô hình sản xuất tổng hợp bò - trùn quế - cỏ, ngô - gia súc, gia cầm - cá; mô hình thủy sản với công nghệ tuần hoàn nước; mô hình chăn nuôi an toàn sinh học 4F (Farm - Food - Feed - Fertilizer: Trồng trọt - Thực phẩm - Chăn nuôi - Phân bón); mô hình “vòng tuần hoàn xanh” trong các trang trại bò sữa...

Có thể nói, việc phát triển KTTH đang mang lại nhiều giá trị cho sản xuất nông nghiệp, góp phần giúp giải quyết được sự khan hiếm tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Để hiện thực hóa các mục tiêu đã đề ra, việc thúc đẩy phát triển KTTH trong nông nghiệp là vấn đề cấp thiết.

Chính vì vậy, chúng ta cần triển khai đồng bộ các giải pháp để đẩy mạnh hơn nữa mô hình kinh tế này. Trong đó, cần tiếp tục nâng cao nhận thức của người sản xuất, doanh nghiệp… trong phát triển KTTH, để từ đó, nhận thấy rõ được những lợi ích mà KTTH mang lại về kinh tế, về môi trường; đẩy mạnh tuyên truyền, giới thiệu và nhân rộng các mô hình hay, hiệu quả về KTTH trong nông nghiệp. Từ đó, nhân rộng, lan tỏa, tạo cơ hội phát triển thêm các mô hình mới trong phát triển KTTH nông nghiệp; tạo động lực để các địa phương, doanh nghiệp, người nông dân đầu tư vào “nông nghiệp tuần hoàn”; Hỗ trợ về vốn, công nghệ, thị trường; hướng dẫn doanh nghiệp, nông dân thực hiện sản xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị. Khuyến khích các doanh nghiệp, tập đoàn có tiềm lực lớn đầu tư khai thác, chế biến phụ phế phẩm nông nghiệp; nâng cao năng lực tái chế, tái sử dụng phụ, phế phẩm nông nghiệp thông qua đào tạo, bồi dưỡng nhân lực. Đầu tư nghiên cứu và chuyển giao khoa học - kỹ thuật trong xử lý phế phẩm nông nghiệp, nhất là ở các địa phương có diện tích trồng trọt và chăn nuôi quy mô lớn. Khuyến khích các địa phương trên cả nước, dựa vào các mô hình đã có và điều kiện cụ thể của mình phát triển các mô hình KTTH trong nông nghiệp cho phù hợp.

Bảo đảm hài hòa lợi ích thúc đẩy chặt chẽ liên kết “6 nhà”

Đại hội XIII của Đảng xác định, phải “Gắn kết chặt chẽ nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ; sản xuất với bảo quản, chế biến, tiêu thụ, xây dựng thương hiệu, nâng cao giá trị nông sản trong các chuỗi giá trị” để nâng cao và thực hiện đồng bộ mối quan hệ liên kết “6 nhà” (Nhà nước, Nông dân (nhà nông), Nhà khoa học, Doanh nghiệp, Ngân hàng (nhà băng) và Nhà phân phối). Sản xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị liên kết là hướng đi bền vững giúp nâng cao hiệu quả sản xuất, quyền lợi, trách nhiệm của các chủ thể tham gia trong chuỗi giá trị liên kết".

Theo đó, Nhà nước là người “cầm cân nảy mực”, là “nhạc trưởng” tạo ra hành lang pháp lý phù hợp, đảm bảo cho sự liên kết các nhà còn lại chặt chẽ và hiệu quả; nhà doanh nghiệp có tiềm lực về vốn, khoa học - công nghệ, đất đai và có tầm nhìn chiến lược trong phát triển sản xuất, là “đầu tàu”, là động cơ của mối liên kết. Doanh nghiệp giữ vai trò quan trọng liên kết “5 nhà” còn lại để hình thành vùng nguyên liệu sản xuất; hỗ trợ đầu vào và thu mua sản phẩm cho nông dân; tuyên truyền từng bước tiến tới xây dựng thương hiệu sản phẩm nông sản. Nhà phân phối giải quyết đầu ra của sản xuất xã hội, nếu hệ thống phân phối rời rạc kém hiệu quả, không biết chia sẻ lợi ích hợp lý cho các thành phần trong chuỗi liên kết thì liên kết sẽ khó thành công; hàng hóa sẽ có lúc ứ đọng, dư thừa và tiếp tục giải cứu. Nhà băng cung cấp nguồn vốn tín dụng nông nghiệp, đặc biệt tín dụng cho vay theo chuỗi giá trị nông sản, thông qua thực hiện các biện pháp đơn giản hóa thủ tục cho vay; phát triển dịch vụ tư vấn hỗ trợ vay vốn và sử dụng vốn vay. Nhà khoa học có vai trò quan trọng trong việc tạo “đầu vào” có chất lượng cao, giảm giá thành nhờ công nghệ. Nhà nông là một chủ thể tạo ra của cải vật chất cho xã hội, họ cần chung tay với nhà khoa học, doanh nghiệp, Nhà nước để đẩy mạnh chuỗi liên kết bền vững, tạo ra sản phẩm chất lượng có tính cạnh tranh cao.

Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay, việc liên kết giữa các "nhà" còn khá lúng túng và hiệu quả chưa cao. Để các mặt hàng nông sản Việt đứng vững trên thị trường trong nước và xuất khẩu, cần phải thúc đẩy chặt chẽ chuỗi liên kết "6 nhà" theo hướng bền vững, công khai, minh bạch và phải được kiểm soát; cần đảm bảo các mục tiêu, phương pháp, nghĩa vụ và lợi ích hài hòa của các chủ thể tham gia chuỗi. Có như vậy, chuỗi liên kết sẽ phát triển bền vững góp phần vào việc thúc đẩy sản xuất nông sản Việt Nam phát triển một cách nhanh và bền vững, đem lại lợi ích cho người tiêu dùng.

Nhà nước cần phát huy vai trò của mình trong việc đáp ứng sự mong đợi của nông dân, thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ chính sách và tài chính, bổ sung những gì còn thiếu để nông dân tiếp cận các kiến thức, kỹ năng sản xuất nông nghiệp và tham gia thị trường. Bên cạnh đó, các giải pháp để thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp cũng cần cụ thể, dài hơi, khơi nguồn sáng tạo, tạo được sức hấp dẫn bằng các cơ chế, chính sách thiết thực, quy định pháp lý rõ ràng về phát huy vai trò của nông hộ trong hợp tác xã và doanh nghiệp để tích tụ, tập trung đất đai, đầu tư khoa học - công nghệ, nâng cao năng suất lao động, phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn gắn với thị trường.

Tăng cường đào tạo các kiến thức khoa học - kỹ thuật, công nghệ mới và kỹ năng quản trị kinh doanh cho nông dân, đặc biệt có thể nhân rộng hình mẫu các nhà nông thành công trong sản xuất, kinh doanh nông nghiệp để làm gương và làm theo phương châm “nông dân dạy nông dân” bằng phương pháp dạy học thực hành theo quy trình sinh trưởng của cây trồng, vật nuôi mà các nhà khoa học của nhà nông đóng vai trò như “thư viện của nông dân”.

Có hình thức tổ chức, tập hợp các nhà khoa học nông nghiệp và tiếp tục tôn vinh danh hiệu “Nhà khoa học của nhà nông” để mang đến cho nông dân, nhà khoa học trong lĩnh vực nông nghiệp không chỉ niềm tự hào mà quan trọng hơn là những tâm đức và kiến thức quý báu của họ được tôn vinh, có giá trị hữu ích. Hỗ trợ nông dân các trang thiết bị thông tin, kết nối, liên kết, hợp tác theo chuỗi sản xuất gắn với thị trường để làm tốt các khâu từ sản xuất đến thu hoạch, bảo quản, chế biến, tiêu thụ, xây dựng thương hiệu, nâng cao giá trị nông sản.

Tiếp tục tháo gỡ về nguồn vốn, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao, liên kết trong sản xuất là những giải pháp để nâng cao đời sống cho người làm nông nghiệp, tiến tới hạn chế tình trạng sản xuất nhỏ lẻ, đồng thời góp phần tăng quy mô sản xuất hàng hóa, vừa cho phép áp dụng các quy trình sản xuất phù hợp, hiện đại, đảm bảo chất lượng sản phẩm, an toàn thực phẩm và nâng cao năng lực quản lý, điều hành, vừa tổ chức sản xuất theo hợp đồng nhằm tránh tình trạng “được mùa, mất giá” hiện nay.

Trong những năm qua, sự vào cuộc mạnh mẽ của Chính phủ thông qua ký kết hàng loạt các hiệp định thương mại như WTO, CPTPP, EVFTA... đã tích cực hỗ trợ cho xuất khẩu nông sản. Với độ phủ rộng lớn về vị trí địa lý, cơ cấu ngành hàng nông sản có lợi thế xuất khẩu, các hiệp định thương mại được coi như "chìa khóa vàng" tạo đà để nông sản Việt Nam cất cánh bay ra thế giới.

Tuy vậy, việc đa dạng thị trường cũng đồng nghĩa với việc đa dạng các yêu cầu về chất lượng sản phẩm; môi trường bền vững; quyền lợi cho người lao động; thương mại công bằng... trong sản xuất và xuất khẩu, đòi hỏi toàn ngành Nông nghiệp Việt Nam phải thay đổi mạnh mẽ để đưa chất lượng và thương hiệu của nông sản Việt có chỗ đứng vững chắc trên thị trường thế giới, để làm được điều đó mối quan hệ "6 nhà" cần tiếp tục giải quyết và thúc đẩy chặt chẽ hơn nữa, đảm bảo sự chia sẻ lợi ích hài hòa giữa các thành phần tham gia chuỗi liên kết.

Trong chương trình công tác tại tỉnh Kon Tum, ngày 19-8-2023, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã khảo sát mô hình vườn sâm Ngọc Linh, xã Ngọk Lây, huyện Tu Mơ Rông. Tại buổi làm việc Thủ tướng Phạm Minh Chính đề nghị cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các mô hình đã có để làm tốt hơn trên tinh thần hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, người dân và doanh nghiệp, phát huy mạnh mẽ hơn nữa việc liên kết “6 nhà” để cùng nhau cộng hưởng sức mạnh xây dựng, phát triển ngành công nghiệp sâm. Theo đó, cấp tỉnh, huyện, xã (chính quyền Nhà nước) cần tiếp tục coi trọng việc xây dựng, bảo vệ thương hiệu sâm Ngọc Linh; tiến hành rà soát, xây dựng và triển khai tốt công tác quy hoạch. Người dân liên kết, thành lập các hợp tác xã, tiến hành sản xuất lớn. Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) hỗ trợ về vốn. Các doanh nghiệp đầu tư, lo vật tư đầu vào và đầu ra sản phẩm, tăng cường chế biến sâu, đa dạng hóa sản phẩm, đáp ứng các nhu cầu đa dạng, phát triển thương hiệu. Nhà phân phối lo khâu thị trường, tiêu thụ sản phẩm… Các nhà khoa học tham gia nghiên cứu về giống, nguồn gen, ứng dụng khoa học - công nghệ, kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng trong sản xuất, chế biến, phát triển sản phẩm sâm Ngọc Linh.

Có thể thấy, trước bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, yêu cầu cơ bản để nông sản Việt Nam có chỗ đứng và sức cạnh tranh là sản phẩm phải sạch, ngon, số lượng lớn, giá rẻ và có chiến lược thị trường tốt. Điều này cũng cho thấy, việc đẩy mạnh, tăng tính liên kết chặt chẽ của “6 nhà” là yếu tố quan trọng trong giai đoạn hiện nay nhằm phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững. Để làm được điều đó, có lẽ cần phải thổi bùng khát vọng phát triển, cống hiến cho nông nghiệp của các thành phần trong chuỗi liên kết.

Vai trò chủ lực về vốn trong đầu tư “Tam nông”

Một trong những yêu cầu đặt ra tại Nghị quyết 19 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đó là hoàn thiện thể chế, chính sách về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Trong đó, có nhấn mạnh đến tiếp tục dành nguồn vốn tín dụng ưu đãi, khuyến khích các tổ chức tín dụng cho vay đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn; hỗ trợ tín dụng cho hợp tác xã, doanh nghiệp, hộ nông thôn phát triển sản xuất, kinh doanh...

Nghị quyết 19 một lần nữa nhấn mạnh tới vai trò của ngân hàng chính sách, trong đó chủ lực là Ngân hàng Agribank tiếp tục phát huy cung cấp tín dụng đối với các hộ sản xuất nông nghiệp, nhất là với hộ nghèo và các đối tượng chính sách; ngăn chặn, xử lý nghiêm tín dụng đen.

Cụ thể hóa các chủ trương Nghị quyết của Trung ương và Chương trình hành động số 17-Ctr/ĐUK ngày 30-9-2022 của Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương, Đảng ủy Agribank đã ban hành Chương trình hành động số 27-CTr/ĐU-NHNo để thực hiện các nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. Trong đó, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, quán triệt và yêu cầu toàn hệ thống nghiêm túc, chủ động thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp nhằm hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nông thôn, phát huy hiệu quả vai trò chủ lực trong hệ thống ngân hàng về cung cấp tín dụng, cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn. Tiếp tục triển khai có hiệu quả chính sách tín dụng ưu đãi để góp phần thực hiện tốt các chương trình mục tiêu quốc gia và đảm bảo an sinh xã hội đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Hỗ trợ các doanh nghiệp mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu các sản phẩm nông, lâm nghiệp, ứng dụng công nghệ mới, tiên tiến; Rà soát, đề xuất hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo điều kiện mở rộng tín dụng và tăng khả năng tiếp cận các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng của các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.

Trải qua 35 năm xây dựng và phát triển, Agribank luôn khẳng định vị thế, vai trò của một trong những ngân hàng thương mại hàng đầu Việt Nam, chủ lực đầu tư phát triển “Tam nông”, đi đầu thực hiện chính sách tiền tệ, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng và bảo đảm an sinh xã hội, phát triển nông nghiệp “trụ đỡ” nền kinh tế theo hướng hiện đại, bền vững, góp phần đưa nền nông nghiệp Việt Nam có những bước tiến căn bản.

Đến nay, Agribank là ngân hàng thương mại duy nhất Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, có quy mô và mạng lưới hoạt động lớn nhất hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam. Agribank tiên phong, trách nhiệm, thực hiện hiệu quả 7 chính sách tín dụng, 3 chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; chương trình xóa đói, giảm nghèo bền vững. 

Với vai trò là "mắt xích" quan trọng trong chuỗi liên kết, Agribank đã góp phần tạo nên các sản phẩm nông nghiệp đạt chất lượng, có giá trị hàng hóa cao, đáp ứng các tiêu chí khắt khe của các thị trường khó tính và tìm được chỗ đứng tại thị trường khu vực và thế giới. Từ nguồn vốn của Agribank, các mô hình sản xuất nông nghiệp sạch, nông nghiệp công nghệ cao bước đầu tạo được sự đồng thuận cao giữa các doanh nghiệp và người dân, qua đó dần hình thành “làn sóng” đầu tư phát triển nông nghiệp sạch, ứng dụng công nghệ cao, có đóng góp tích cực đối với quá trình triển khai tái cơ cấu nền nông nghiệp, hướng tới đạt được các mục tiêu của nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, phát triển bền vững. 

Đồng hành cùng Chính phủ Việt Nam và ngành Ngân hàng trong việc triển khai Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050, góp phần thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nhằm đạt được thịnh vượng về kinh tế, bền vững về môi trường và công bằng về xã hội, Agribank xác định thúc đẩy tín dụng xanh, ngân hàng xanh, hướng tới phát triển bền vững là một trong những mục tiêu hàng đầu trong chiến lược phát triển ngân hàng giai đoạn 2023-2030. Nhận định bộ tiêu chuẩn ESG là động lực quan trọng cho sự phát triển bền vững, Agribank cam kết thực hiện ESG trên cả ba trụ cột “Môi trường - Xã hội - Quản trị”.

Từ năm 2017 đến nay, Agribank triển khai Đề án điểm giao dịch lưu động bằng ô tô chuyên dùng tới tận các xã vùng sâu, vùng xa đã phục vụ 1,4 triệu lượt khách hàng tại 454 xã trên toàn quốc, là một kênh dẫn vốn hiệu quả của Agribank với chi phí thấp nhằm cung cấp dịch vụ ngân hàng cho các hộ sản xuất, cá nhân ở khu vực nông thôn, tạo điều kiện thuận lợi giúp mọi khách hàng, người dân đều có cơ hội vay vốn, góp phần phát triển sản xuất hàng hóa.

Mặt khác, Agribank còn đẩy mạnh phát triển dịch vụ thẻ thấu chi tại thị trường nông nghiệp, nông thôn với chính sách hỗ trợ ưu đãi, thủ tục đơn giản, linh hoạt. Nguồn vốn của Agribank đã và đang góp phần tạo nên những thay đổi tích cực trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm, phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn, tăng thu nhập cho khách hàng, ổn định các vấn đề kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn Việt Nam.

Trên khắp mọi miền Tổ quốc, nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp do Agribank đầu tư đã mang lại hiệu quả thiết thực như các mô hình trồng rau, hoa, quả (Lâm Đồng), cánh đồng mẫu lớn (Cần Thơ), chăn nuôi (Bắc Ninh, Lào Cai, Hà Nam), trồng mía đường (Thanh Hóa, Khánh Hoà, Tuyên Quang), ngô (Sơn La), hoa quả và rau an toàn ở khu vực các tỉnh Tây Nguyên, thanh long theo tiêu chuẩn VietGap (Bình Thuận)…

Hưởng ứng Chương trình cho vay nông nghiệp công nghệ cao do Thủ tướng phát động, từ tháng 11-2016 đến ngày 30-11-2022, doanh số cho vay từ khi bắt đầu triển khai chương trình của Agribank đã đạt trên 30.000 tỷ đồng, dư nợ đạt trên 5.000 tỷ đồng với gần 4.000 khách hàng. Triển khai chương trình tín dụng ưu đãi quy mô tối thiểu 50.000 tỷ đồng và không hạn chế về nguồn vốn phục vụ sản xuất “nông nghiệp sạch” vì sức khỏe cộng đồng từ năm 2016. Đối tượng khách hàng vay vốn của chương trình là doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, chủ trang trại… Đến nay, doanh số cho vay nông nghiệp sạch, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao của Agribank đạt trên 25.000 tỷ đồng, chiếm 50% tổng nguồn vốn đầu tư cho lĩnh vực này, dư nợ đạt 12.000 tỷ đồng với hơn 43.000 khách hàng (trong đó, hơn 98% khách hàng là cá nhân, chủ trang trại, tổ hợp tác...).

Tại Agribank, nghiệp vụ thanh toán biên mậu đang được mở rộng tới nhiều ngân hàng, đối tác, đa dạng hóa cơ chế ưu đãi, nhằm hỗ trợ cho doanh nghiệp và người dân trong kinh doanh, đặc biệt trong hoạt động xuất khẩu nông sản công nghệ cao. Với hệ thống mạng lưới giao dịch tới nhiều nước, dịch vụ thanh toán của Agribank đến các khách hàng sẽ được đảm bảo nhanh chóng và thuận lợi, như một cánh tay nối dài đưa nông sản Việt Nam đến gần hơn với thế giới. Từ đó, tạo chuyển biến căn bản về sản xuất nông nghiệp ở nông thôn, phát triển được nhiều ngành nghề, dịch vụ, góp phần phát triển kinh tế - xã hội địa phương, nâng cao đời sống nhân dân. 

Bên cạnh đó, bám sát chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước về các giải pháp hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng dịch COVID-19 và thực hiện Chương trình phục hồi kinh tế - xã hội, Agribank là ngân hàng tiên phong triển khai chính sách hỗ trợ lãi suất 2%/năm trên lãi suất vay thực tế từ ngân sách nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh. Cùng với việc triển khai hỗ trợ lãi suất 2%, bằng nguồn lực của mình, Agribank chủ động giảm tiếp 20% so với lãi suất cho vay đang áp dụng đối với dư nợ bằng đồng Việt Nam tại thời điểm 30-11-2022, tiếp tục hỗ trợ khách hàng doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh đang gặp vướng mắc, chưa được hưởng chính sách hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước. Đồng thời, Agribank phối hợp chặt chẽ với các tổ chức chính trị - xã hội thông qua mô hình tổ vay vốn, tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật  của Nhà nước, chính sách tín dụng Ngân hàng, công nghệ mới trong sản xuất, chế biến… góp phần tạo niềm tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, chính sách của Nhà nước, sự điều hành của Chính phủ đối với sự nghiệp phát triển của nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

Nhằm tiếp tục đẩy mạnh hoạt động dịch vụ ngân hàng phục vụ "tam nông", ngày 24-5-2023, tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Ngân hàng Agribank chính thức ký kết thỏa thuận hợp tác nhằm mục đích triển khai có hiệu quả các chương trình, đề án, dự án do Bộ quản lý, chủ trì, triển khai thực hiện. Qua đó, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, hiệu quả trong sản xuất, kinh doanh, đáp ứng tiêu chuẩn phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Đồng thời thúc đẩy nhanh, hiệu quả và bền vững quá trình tái cơ cấu ngành Nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.

Theo đó, trong những năm qua, Agribank cũng đã tham gia 4 dự án của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về chống biến đổi khí hậu, giảm phát thải, quản lý tài nguyên bền vững, phát triển cho vay chuỗi giá trị thông minh… với gần 60 triệu đô-la Mỹ (khoảng 1.500 tỷ đồng). Hiện nay, Ngân hàng đang tiếp tục phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện 4 dự án khác (khoảng 1.200 tỷ đồng). Sự kiện ký kết thỏa thuận hợp tác sẽ là tiền đề để tăng cường hơn nữa sự phối hợp chặt chẽ giữa Agribank với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng hướng đến hiện thực hóa các chủ trương, chính sách của Đàng, Nhà nước về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Những nhiệm vụ, giải pháp mang tính đồng bộ, toàn diện

Trong thời gian tới, để nền nông nghiệp Việt Nam cất cánh cần thực hiện sáng tạo, hiệu quả những chủ trương và giải pháp đã đề ra tạo nên động lực mới về phát triển nông nghiệp, nông dân đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

Một là, nâng cao vai trò, vị thế, năng lực làm chủ, cải thiện toàn diện đời sống vật chất, tinh thần của của nông dân và người dân nông thôn.

Tăng cường giáo dục, đào tạo, truyền thông nâng cao nhận thức, trình độ theo hướng “trí thức hóa nông dân” để có thể làm chủ công nghệ trong sản xuất, chế biến, thương mại và làm giàu từ nông nghiệp. Đẩy mạnh các phong trào nông dân khởi nghiệp, thi đua sản xuất, kinh doanh, cùng nhau làm giàu, giảm nghèo bền vững và xây dựng nông thôn mới. Bảo đảm an sinh xã hội, giảm thiểu rủi ro thông qua chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm nông nghiệp, theo định hướng phát triển bao trùm “không để ai bị bỏ lại phía sau”.

Hoàn thiện các quy định về thực hiện dân chủ ở cơ sở, giúp người dân tham gia thực chất trong xây dựng, triển khai thực hiện kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương, bảo đảm quyền làm chủ của người dân theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

Hai là, phát triển nền nông nghiệp hiện đại, hiệu quả, bền vững theo hướng sinh thái, ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến, nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng.

Đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp bảo đảm thực chất, hiệu quả, khai thác và phát huy lợi thế nông nghiệp nhiệt đới, phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung quy mô lớn theo hướng hiện đại, vùng chuyên canh hàng hóa chất lượng cao. Phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, công nghệ tiên tiến gắn với bảo đảm an toàn thực phẩm. Khuyến khích phát triển nông nghiệp xanh, hữu cơ, tuần hoàn, giảm phát thải khí nhà kính, phù hợp với lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế. Mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản đồng thời chú trọng phát triển thị trường trong nước, tránh phụ thuộc vào một số thị trường, khắc phục tình trạng ùn ứ nông sản xuất khẩu qua biên giới. Nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại. Xây dựng các chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn, chất lượng; có chế tài đủ sức răn đe để xử lý vi phạm về an toàn thực phẩm. Đầu tư, phát triển đồng bộ, hiệu quả hệ thống kỹ thuật chuyên ngành nông nghiệp, thú y, bảo vệ và kiểm dịch thực vật, động vật.

Ba là, phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm tại chỗ cho lao động nông thôn.

Xây dựng và tổ chức triển khai hiệu quả các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, phát triển công nghiệp, dịch vụ. Đầu tư nâng cấp hạ tầng công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn, hình thành mạng lưới lưu thông, chế biến, bảo quản, logistics, thương mại điện tử. Phát triển mạnh công nghiệp ở nông thôn, nhất là công nghiệp chế biến nông sản; công nghiệp sản xuất thiết bị, máy móc, vật tư phục vụ nông nghiệp.

Bảo tồn, phát triển các ngành nghề, dịch vụ nông thôn, du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái. Thực hiện hiệu quả chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP), gắn với bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống. Xây dựng hạ tầng thương mại nông thôn đa dạng, đồng bộ, kết hợp hài hoà giữa thương mại truyền thống với thương mại hiện đại, phù hợp với từng địa bàn; nâng cấp hệ thống chợ truyền thống đáp ứng nhu cầu của người dân.

Bốn là, xây dựng nông thôn theo hướng hiện đại gắn với đô thị hóa.

Xây dựng nông thôn mới phát triển toàn diện, bền vững gắn với đô thị hoá, bảo đảm thực chất, đi vào chiều sâu, hiệu quả, vì lợi ích của người dân. Tiếp tục thực hiện xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu và xây dựng nông thôn mới cấp thôn, bản. Có chính sách phù hợp đối với xây dựng nông thôn mới ở từng vùng ven đô thị, đồng bằng, miền núi, biên giới, hải đảo.

Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn cao hiệu quả, tăng đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước, ưu tiên các vùng khó khăn. Tích hợp một số chương trình đầu tư đang triển khai trên địa bàn nông thôn vào Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, phát triển bền vững kinh tế - xã hội khu vực biên giới, biển đảo.

Năm là, hoàn thiện thể chế, chính sách về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

Hoàn thiện chính sách, pháp luật đất đai theo hướng quản lý, sử dụng bền vững, hiệu quả đất nông nghiệp.

Có cơ chế điều tiết, phân bổ ngân sách nhà nước bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các địa phương có diện tích đất trồng lúa, đất rừng lớn với các địa phương khác. Khẩn trương hoàn thiện chính sách để mở rộng quy mô, đối tượng tham gia bảo hiểm nông nghiệp, góp phần giảm thiểu rủi ro cho nông dân.

Tiếp tục dành nguồn vốn tín dụng ưu đãi, khuyến khích các tổ chức tín dụng cho vay đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn; hỗ trợ tín dụng cho hợp tác xã, doanh nghiệp, hộ nông thôn phát triển sản xuất, kinh doanh; nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng. Xây dựng chính sách đủ mạnh để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn.  

Sáu là, tạo đột phá trong nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo; đào tạo nguồn nhân lực trong nông nghiệp, nông thôn.

Đổi mới hoạt động, nâng cao năng lực nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ cao, công nghệ thân thiện môi trường. Chủ động, tích cực thực hiện chuyển đổi số trong nông nghiệp, nông thôn. Khuyến khích, hỗ trợ thành lập các vườn ươm/trung tâm khởi nghiệp, quỹ đầu tư đổi mới sáng tạo để hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp trong nông nghiệp, nông thôn.

Thúc đẩy các mô hình liên kết đa tác nhân, đa lĩnh vực giữa các viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp, hợp tác xã và nông dân nhằm nâng cao năng lực và kiến thức, kinh nghiệm quản lý vận hành hiệu quả. Đào tạo nâng cao kỹ năng nghề trong các lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao, công nghệ mới tiên tiến cho lực lượng lao động. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về nông nghiệp và liên thông với hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, kinh tế - xã hội, hạ tầng sản xuất, công nghệ, môi trường, khí tượng thủy văn… Có cơ chế, chính sách đột phá trong phát triển nguồn nhân lực. Thực hiện có hiệu quả chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn.

Bảy là, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường nông thôn, nâng cao khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai.

Chuyển đổi mạnh mẽ sang mô hình tăng trưởng xanh. Quản lý, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả đất nông nghiệp, tài nguyên rừng, tài nguyên nước gắn với bảo tồn đa dạng sinh học. Quy hoạch sử dụng đất nông thôn gắn với phát triển đô thị, khai thác và phát huy nguồn lực đất đai trong xây dựng, phát triển kinh tế nông thôn. Bảo đảm an ninh nguồn nước, sử dụng hiệu quả, bền vững nguồn nước. Bảo vệ nguồn lợi thủy, hải sản. Nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường nông thôn. Nâng cao khả năng thích ứng biến đổi khí hậu và phòng chống thiên tai. Ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ thích ứng biến đổi khí hậu và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính trong sản xuất nông nghiệp.

Tám là, chủ động hội nhập, hợp tác quốc tế, mở rộng thị trường, thu hút nguồn lực và khoa học - công nghệ.

Tiếp tục mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản. Khai thác hiệu quả cơ hội từ các Hiệp định Thương mại tự do (FTA), giữ ổn định các thị trường truyền thống, phát triển thị trường mới, mở rộng thị trường xuất khẩu chính ngạch, tránh phụ thuộc vào một số thị trường. Tiếp tục huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn, nguồn tài trợ của các nước, cá nhân, tổ chức quốc tế cho phát triển nông nghiệp, nông thôn; thu hút có lựa chọn các dự án đầu tư nước ngoài, khuyến khích đầu tư vào phát triển công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn. Mở rộng hợp tác quốc tế, chuyển giao công nghệ mới, tiên tiến, nhất là công nghệ chế biến, tái sử dụng phụ phẩm, công nghệ giống.

Chín là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Nông dân và các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp ở nông thôn.

Xác định rõ vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền, người đứng đầu trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Cấp ủy, chính quyền các cấp đề ra các nhiệm vụ, giải pháp, quán triệt, chỉ đạo, vận động toàn hệ thống chính trị tổ chức thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển “nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh”.

Phát huy vai trò, huy động sự vào cuộc tích cực của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Nông dân, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp trong phát triển nông nghiệp, nông thôn. Vận động nhân dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa gắn với xây dựng nông thôn mới.

Như vậy, với Nghị quyết số 19-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; các chương trình, nghị quyết của các cấp, các ngành liên quan đến lĩnh vực "tam nông", cùng với sự vào cuộc tích cực của cả hệ thống chính trị, sự đồng lòng của toàn xã hội, chắc chắn sự nghiệp xây dựng, phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn sẽ tiếp tục gặt hái được nhiều thành công và có những bước phát triển đột phá mạnh mẽ hơn nữa.

----

1.Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

2. Nghị quyết số 19-NQ/TW, ngày 16-6-2022, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

3. Nghị quyết 26/NQ-CP ngày 27-2-2023 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW.

4. Quyết định số 150/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

5.Quyết định số 263/QĐ-TTg ngày 22-2-2022 phê duyệt Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025.

6. Quyết định số 318/QĐ-TTg ngày 8-3-2022 ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới, Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021-2025.

7. Báo cáo chế biến nông, lâm, thủy sản giai đoạn 2021-2030 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

8. Báo cáo số 83/BC-CP, ngày 22/3/2021 của Chính phủ về công tác bảo vệ môi trường năm 2020.

9. Kết quả sơ bộ điều tra mức sống dân cư năm 2020, Tổng cục Thống kê 2021.7. Theo kết quả nghiên cứu nguồn lực hộ gia đình nông thôn của Viện Khoa học lao động và xã hội, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương và Đại học Copenhagen, năm 2018.

10. Báo cáo chuyên đề của Trung ương Hội Nông dân Việt nam, 2021.

11. Báo cáo đánh giá môi trường chiến lược quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Tác phẩm đoạt giải khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất