Cán bộ, đảng viên với vấn đề phản biện xã hội

BÀI 1: KHÁI QUÁT VỀ VẤN ĐỀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI

 

Phản biện hay phản biện xã hội là vấn đề được nhắc đến rất nhiều lần trong thời gian qua, nhất là khoảng 15 năm gần đây. Phản biện xã hội dần trở thành một chức năng quan trọng của Mặt trận và các tổ chức đoàn thể, nhất là các đoàn thể chính trị - xã hội, của các cơ quan truyền thông (nhất là hệ thống báo chí), của tầng lớp trí thức… Với trách nhiệm và điều kiện cụ thể của mình, bản thân mỗi đảng viên cũng cần có thái độ phản biện với một số vấn đề nào đó trong Đảng, ngoài xã hội, cũng như cần có thái độ ứng xử phù hợp với vấn đề phản biện.

 

Vấn đề phản biện trong một số văn kiện của Đảng

 

Báo cáo chính trị trình Đại hội XII của Đảng có thể nói là văn kiện Đại hội Đảng nhắc đến vấn đề phản biện nhiều nhất từ trước đến nay. Báo cáo đã nêu những định hướng lớn: “Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo, tư vấn, phản biện của các nhà khoa học”; “khắc phục những hạn chế, bảo đảm tác dụng, hiệu quả thực chất hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; “coi trọng vai trò tư vấn, phản biện, giám định xã hội của các cơ quan nghiên cứu khoa học trong việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội”… Đồng thời, yêu cầu “Mặt trận Tổ quốc đóng vai trò nòng cốt trong tập hợp, vận động nhân dân, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát và phản biện xã hội”; “tổ chức thực hiện tốt Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội”; “thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát của tổ chức đảng, giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của nhân dân về phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên”…

 

Nghị quyết Đại hội XI, trong phần Phát triển hệ thống thông tin đại chúng ở mục Chăm lo phát triển văn hóa đã nêu: “Chú trọng nâng cao tính tư tưởng, phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin, giáo dục, tổ chức và phản biện xã hội của các phương tiện thông tin đại chúng vì lợi ích của nhân dân và đất nước”. Ở phần Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, Nghị quyết nêu: “Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện, giám định xã hội của các cơ quan nghiên cứu khoa học trong việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và các dự án phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội”, đồng thời giao trách nhiệm “Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tiếp tục tăng cường tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, khắc phục tình trạng hành chính hoá, phát huy vai trò nòng cốt tập hợp, đoàn kết nhân dân xây dựng cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; thực hiện dân chủ, giám sát và phản biện xã hội”…

 

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nhấn mạnh: “Đảng tôn trọng tính tự chủ, ủng hộ mọi hoạt động tự nguyện, tích cực, sáng tạo và chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và các đoàn thể. Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội”.

 

Vấn đề phản biện cũng được Đại hội X nhắc đến: “Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện của các hội khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và văn học, nghệ thuật đối với các dự án phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội”; “Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội”; “Xây dựng quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định lớn của Đảng và việc tổ chức thực hiện, kể cả đối với công tác tổ chức và cán bộ”...

 

Trong khi đó, các văn kiện trình bày tại Đại hội IX của Đảng (năm 2001) đều chưa nhắc đến vấn đề phản biện.

 

Trong phần Tổ chức thực hiện, Nghị quyết 12-NQ/TW “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” nêu rõ: “Ban Dân vận Trung ương chủ trì phối hợp với Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các cơ quan liên quan nghiên cứu, xây dựng quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, cơ chế để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, trình Bộ Chính trị ban hành”.

 

Đến ngày 12-12-2013, Bộ Chính trị khóa XI đã ra Quyết định số 217-QĐ/TW ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội. Quy chế này nêu cụ thể, chi tiết về phản biện xã hội và trách nhiệm của các từng tổ chức trong hoạt động này. Vì vậy, Nghị quyết 04-NQ/TW ngày 30-10-2016 tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XII “về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ” chỉ nêu ngắn gọn: “Các cấp ủy, chính quyền phải nhận thức sâu sắc, quán triệt và thực hiện nghiêm Quyết định số 217-QĐ/TW về quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội”…

 

Tư duy phản biện

 

Tư duy phản biện có thể xem là một quá trình tư duy biện chứng gồm phân tích và đánh giá một thông tin đã có theo các cách nhìn khác cho vấn đề đã đặt ra nhằm làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác của vấn đề. Lập luận phản biện phải rõ ràng, logic, đầy đủ bằng chứng, tỉ mỉ và công tâm. Tư duy phản biện không chỉ đơn thuần là sự tiếp nhận và duy trì thông tin thụ động mà nó có thể tóm tắt là quá trình tư duy tìm lập luận phản bác lại kết quả của một quá trình tư duy khác để xác định lại tính chính xác của thông tin[1].

 

Các nhà khoa học đã đúc kết về bước thực hiện tư duy phản biện: trước hết là phân tích, mỗi ý kiến cần đưa ra một vài luận điểm ủng hộ và luận cứ phản biện; với mỗi luận điểm đưa ra nhiều luận cứ khác nhau; luôn nhìn sự việc, vấn đề dưới nhiều góc cạnh khác nhau, tìm ưu điểm và khuyết điểm. Kế đến là đánh giá, khảo sát sự mâu thuẫn giữa các ý kiến; định lượng sức thuyết phục của những ý kiến (sức thuyết phục dựa trên mức độ khách quan, sự chính xác… chứ không phải chỉ dựa vào cá nhân người đưa ra ý kiến), từ đó để đưa ra quan điểm của bản thân (ý kiến nào là đúng). Tiếp nữa, phát triển ý kiến (chỉ ra những đặc điểm nổi trội của ý kiến và tìm những dẫn chứng thực tế giúp củng cố ý kiến đó, tự tìm ra những điểm mâu thuẫn hoặc không thuyết phục trong ý kiến của mình). Cuối cùng, nêu ra các điểm không chuẩn xác trong lập luận của người/nhóm người mang ý kiến đối lập và phản bác lại ý kiến đó[2].

 

Trong quá trình đưa ra ý kiến phản biện, phải luôn chú ý đến việc phải tự thân phản biện. Khi thu nhận được một thông tin, điều cần trước tiên là hiểu rõ nội dung thông tin đó; ta không thể phản biện khi ta không hiểu về vấn đề đó, không hiểu về người phát biểu ý kiến đó (họ nói lúc nào, ở đâu, trong hoàn cảnh nào, toàn văn vấn đề họ đề cập là gì…). Phải hết sức tránh ghi nhận thông tin phiến diện, bị cắt cúp, xuyên tạc trong khi ta không kiểm chứng. Bản thân người phản biện phải hết sức tránh tính thiên vị, rằng yêu nên tốt và ghét nên xấu hoặc mang những định kiến cá nhân. Do đó phải luôn thận trọng ghi nhận ý kiến của người khác trước khi đưa ra quan điểm của mình, đồng thời luôn nhận thức rằng trong lập luận của mình chắc chắn có sơ hở và sai lầm để tìm cách hoàn thiện nhất có thể.

 

Từ đó, có thể khẳng định, tư duy phản biện là một quá trình tư duy nhằm chất vấn các giả định hay giả thiết. Đó là cách để khẳng định rằng một nhận định nào đó là đúng hay sai, đôi khi đúng, hay có phần đúng. Tư duy phản biện được miêu tả là những suy nghĩ mang tính chất phản ánh có lý lẽ về việc tin vào điều gì hoặc làm điều gì. Nó cũng được miêu tả là “tư duy  về tư duy”. Tư duy phản biện thường được hiểu là sự gắn bó với thực tiễn xã hội và chính trị trong việc tham gia dân chủ, là ước muốn hình dung ra hay mở ra những quan điểm khác mà ta có thể lựa chọn; là ước muốn kết hợp những quan điểm mới hay những quan điểm cũ đã biến cải vào cách tư duy và hành động của chúng ta, cũng như ước muốn thúc đẩy khả năng phản biện nơi người khác[3].

 

Quan điểm của Đảng về phản biện xã hội

 

Ở phần này, chúng tôi tóm tắt một cách khái quát nhất về phản biện được Đảng ta nêu trong Quyết định số 217-QĐ/TW ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội.

 

Theo đó, “phản biện xã hội” được định nghĩa là việc nhận xét, đánh giá, nêu chính kiến, kiến nghị đối với dự thảo các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước[4]. Phản biện xã hội có mục đích nhằm phát hiện những nội dung còn thiếu, chưa sát, chưa đúng, chưa phù hợp trong các văn bản dự thảo của các cơ quan Đảng, Nhà nước; kiến nghị những nội dung thiết thực, góp phần bảo đảm tính đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội và tính hiệu quả trong việc hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân; phát huy dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội. Cũng như giám sát, phản biện xã hội mang tính nhân dân, tính dân chủ xã hội chủ nghĩa, tính xây dựng, tính khoa học và thực tiễn.

 

Các nguyên tắc giám sát và phản biện xã hội, bao gồm: 1. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật, Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Điều lệ các đoàn thể chính trị - xã hội. 2. Có sự phối hợp chặt chẽ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội với các cơ quan, tổ chức có liên quan; không làm trở ngại các hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân được giám sát và phản biện xã hội. 3. Bảo đảm dân chủ, công khai, khách quan và mang tính xây dựng. 4. Tôn trọng các ý kiến khác nhau, nhưng không trái với quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, đoàn viên, hội viên, lợi ích quốc gia, dân tộc.

 

Đối tượng phản biện xã hội là các văn bản dự thảo về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật, các quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Nhà nước (trừ những vấn đề thuộc bí mật quốc gia) phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình.

 

Nội dung phản biện xã hội bao gồm sự cần thiết, tính cấp thiết của văn bản dự thảo; sự phù hợp của văn bản dự thảo với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, thực tiễn của đơn vị, địa phương; tính đúng đắn, khoa học, phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội và tính khả thi của văn bản dự thảo; dự báo tác động, hiệu quả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của văn bảo dự thảo.

 

Phản biện xã hội có thể được tiến hành theo một số phương pháp như tổ chức hội nghị để lấy ý kiến; tổ chức lấy ý kiến phản biện (thông qua tổ chức, cá nhân, đoàn viên, hội viên) trong hệ thống của tổ chức, đoàn thể mình hoặc gửi văn bản dự thảo đến các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để lấy ý kiến phản biện; khi cần thiết, tổ chức đối thoại trực tiếp giữa chủ thể phản biện với cơ quan, tổ chức có văn bản dự thảo được phản biện. Ngoài ra, có thể thực hiện việc phản biện thông qua các phương tiện truyền thông, bao gồm các cơ quan báo chí, các cổng thông tin điện tử, các trang mạng xã hội…

 

Về quyền và trách nhiệm trong phản biện xã hội của chủ thể phản biện xã hội, đó là xây dựng kế hoạch phản biện xã hội phù hợp với kế hoạch, yêu cầu phản biện của cơ quan, tổ chức cần phản biện; tổ chức đối thoại với cơ quan, tổ chức có yêu cầu phản biện khi cần thiết; gửi kết quả phản biện bằng văn bản đến cơ quan, tổ chức yêu cầu phản biện; chịu trách nhiệm về những nội dung phản biện của mình; bảo đảm bí mật nội dung thông tin phản biện theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức có văn bản dự thảo (nếu có)…

 

Cơ quan, tổ chức yêu cầu phản biện xã hội phải gửi văn bản dự thảo và cung cấp đầy đủ những thông tin, tài liệu cần thiết đến chủ thể phản biện; cử người có trách nhiệm thay mặt tổ chức của mình tham dự hội nghị phản biện do chủ thể phản biện tổ chức hoặc tham gia đối thoại theo yêu cầu của chủ thể phản biện; trả lời bằng văn bản với chủ thể phản biện về việc tiếp thu ý kiến phản biện; báo cáo đầy đủ (bằng văn bản) các ý kiến phản biện của chủ thể phản biện với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ban hành văn bản…

 

Như vậy, phản biện xã hội có thể khái quát là việc nêu ý kiến đối với một vấn đề nào đó của hệ thống chính trị, nhằm phát hiện những điểm chưa đúng, chưa phù hợp, góp phần hoàn thiện nó hơn trên tinh thần dân chủ, công khai, minh bạch, có trách nhiệm, có tinh thần xây dựng và tôn trọng lẫn nhau.

 

Đón xem các bài tiếp theo: Phân biệt phản biện xã hội với một số hình thái thể hiện ý kiến khác; Trách nhiệm của cán bộ, đảng viên đối với vấn đề phản biện xã hội; Cảnh giác trước hoạt động lợi dụng phản biện xã hội để xuyên tạc, chống phá Đảng và Nhà nước ta.

 

BÀI 2: PHÂN BIỆT PHẢN BIỆN XÃ HỘI VỚI MỘT SỐ HÌNH THÁI THỂ HIỆN Ý KIẾN KHÁC

 

 

 

Trên thực tế, có nhiều hình thái thể hiện quan điểm, chính kiến, ý kiến của một tổ chức, cá nhân đối với các vấn đề của xã hội, của đất nước. Mỗi hình thái mang sắc thái tư tưởng, tình cảm, trách nhiệm, thậm chí cả ý đồ khác nhau.

 

Để làm rõ phản biện có nội hàm khác với các hình thái bày tỏ, thể hiện ý kiến khác, chúng ta một lần nữa tìm hiểu kỹ hơn về phản biện. “Theo nghĩa từ nguyên, phản có nghĩa là nghĩ, xét lạibiện là phân tích, biện luận. Nếu gắn phản với biện có nghĩa là phân định xấu, tốt, trên cơ sở phân tích, biện luận. Theo nghĩa trên, có thể hiểu phản biện là đặt lại, xét lại một sự việc, một vấn đề trên cơ sở lập luận, phân tích một cách khách quan khoa học có sức thuyết phục, nhằm phát hiện hoặc đưa các chính kiến trở về đúng giá trị của nó. Ban đầu khái niệm phản biện thường dùng để nhận xét, đánh giá chất lượng một công trình khoa học, sau đó dần mở rộng ra lĩnh vực chính trị - xã hộiPhản biện xã hội là sự phản ánh chính kiến của xã hội đối với các chủ trương, chính sách, pháp luật do hệ thống lãnh đạo, quản lý đề ra, thể hiện qua những nhận xét, đánh giá, phân tích có căn cứ và có sức thuyết phục, được thực hiện một cách trực tiếp hoặc gián tiếp bởi các chủ thể phản biện; có chức năng chuyển tải nhu cầu, nguyện vọng của xã hội đến hệ thống lãnh đạo và quản lý; có tác dụng thúc đẩy nền dân chủ xã hội và củng cố thể chế xã hội. Hình thức phản biện xã hội tùy thuộc vào truyền thống văn hóa chính trị, trình độ tổ chức dân chủ của từng nơi, từng thời kỳ lịch sử[5].

 

Ngoài phản biện, còn có một số hình thái bày tỏ ý kiến khác.

 

Trưng cầu dân ý

 

Trưng cầu dân ý hay bỏ phiếu toàn dân là một cuộc bỏ phiếu trực tiếp, trong đó toàn bộ các cử tri được yêu cầu chấp nhận hay phủ quyết một đề xuất đặc biệt. Đó có thể là sự thông qua một hiến pháp mới, một sự sửa đổi hiến pháp, một bộ luật, một sự bãi miễn một quan chức đã được bầu hay đơn giản chỉ là một chính sách riêng của chính phủ. trưng cầu dân ý hay bỏ phiếu toàn dân là một hình thức dân chủ trực tiếp. Ngày nay, tại Việt Nam, trong dự thảo luật hay các vấn đề lớn của đất nước, thường gọi là lấy ý kiến nhân dân[6]

 

Trên thực tế, trưng cầu dân ý là việc nhà nước hỏi để người dân trả lời, đồng ý hay không đồng ý đối với phương án đưa ra mà không cần tranh luận và cũng không thể tranh luận. Hình thức này chỉ thật sự có tác dụng khi người dân có đầy đủ thông tin cần thiết về vấn đề được hỏi ý kiến; nếu người dân không ý thức được đầy đủ sự đúng - sai của phương án đã lựa chọn, không lường được những hậu quả bởi quyết định lựa chọn của bản thân mình hoặc cuộc trưng cầu dân ý thực chất là mưu đồ của ai đó, hoặc các câu hỏi gợi ý không thực sự minh bạch thì kết quả có thể không phản ánh được ý chí, nguyện vọng thực sự của người dân[7].

 

Còn phản biện xã hội là việc để cho nhân dân nhận xét,đánh giá, góp ý với người lãnh đạo và quản lý nhằm tìm ra phương án tốt nhất có lợi cho nhân dân; trong nhận xét, đánh giá có thể có phê bình, chê trách… Phản biện xã hội phải thông qua tranh luận, có khi tranh luận dài lâu, trên tinh thần khách quan, khoa học, tôn trọng lẫn nhau, mới đi đến quyết định đồng ý hay không đồng ý. Do đó, phản biện xã hội thể hiện trình độ phát triển cao của nền dân chủ, tinh thần trách nhiệm cao của nhân dân, trình độ dân trí đạt đến một mức độ nhất định, cũng như thái độ tôn trọng nhân dân cần thiết của chính quyền và chỉ đạt được chất lượng tốtkhi có sự chuẩn bị một cách chu đáo.

 

Phản bác

 

Phản bác là bác bỏ một phần hoặc hoàn toàn đối với một vấn đề. Phản bác có thể nêu ra những lý lẽ để không đồng tình một dự án, một kế hoạch, một chủ trương gì và không nhất thiết phải đưa ra những giải pháp thay thế và các nội dung bổ sung. Phản bác trong nhiều trường hợp vẫn có tính xây dựng nhưng tính xây dựng đó thể hiện chưa đầy đủ, thường mới dừng ở góc nhìn là “điều đó chưa tốt nhưng chưa nêu lên được giải pháp tốt hơn”.

 

Phản biện có nội hàm rộng hơn so với phản bác. Trong quá trình phản biện có thể đi đến phản bác, nhưng phản biện không chỉ có phản bác mà còn có bổ sung, sửa đổi, điều chỉnhkhẳng địnhcái đúng, cái hay, cái ưu điểm trong những vấn đề được phản biện mà tác giả của nó nhiều khi chưa tự thấy rõ. 

 

Phản kháng

 

Phản kháng là hoạt động chống đối hoặc có tính chống đối nhằm phản đối, đả kích, gạt bỏ phương án xã hội được đưa ra, do có sự đối lập về mục tiêu, lợi ích hoặc bản chất xã hội. Phản kháng không chỉ là việc khác nhau cơ bản, đối chọi về lập luận, ý kiến, mà còn thể hiện ở nhiều hình thức khác. Phản kháng không có tính xây dựng nhưng cũng là một biểu hiện cần được quan tâm, xem xét thấu đáo trong quá trình ban hành các kế hoạch, phương án mang tính xã hội. Đồng thời, phản kháng cũng là một chỉ dấu cho thấy thái độ của xã hội hoặc một nhóm người trong xã hội đối với một vấn đề nào đó hoặc về tổng thể đường lối, chủ trương của chính quyền. Bởi trong một số trường hợp, khi chính quyền để mất lòng tin với nhân dân thì dù họ đưa ra chủ trương đúng, tích cực nhưng cũng không thuyết phục được người dân nên họ vẫn cứ phản kháng. Khi đó, chính quyền phải tự nhìn lại mình cũng như tìm cách thuyết phục được người dân, thay vì tìm cách trấn áp những người phản kháng.

 

Phản biện xã hội không bao giờ là sự phản kháng, nếu mang danh nghĩa phản biện nhưng đã mang tính phản kháng thì đó không phải là phản biện; phản biện mà luôn vì mục đích lựa chọn phương án tốt nhất. “Phản biện xã hội và phản kháng xã hội tuy khác nhau về bản chất, nhưng đôi khi lại có quan hệ với nhau. Phản kháng xã hội có thể xảy ra nếu không làm tốt phản biện xã hội. Phản biện xã hội là một giải pháp để phát hiện mâu thuẫn và hóa giải mâu thuẫn, tạo nên sự đồng thuận xã hội, phòng ngừa nguy cơ xảy ra phản kháng xã hội. Do vậy, có thể nói rằng nếu khước từ phản biện xã hội hay không làm tốt phản biện xã hội thì sẽ tạo mầm mống cho phản kháng xã hội”[8].

 

Xét về động cơ, mục tiêu, người phản biện và người bị phản biện luôn có cùng một đích đến và ở cùng một nền tảng (nền tảng quan điểm, tri thức, nhận thức…) và chỉ khác nhau về phương thức, cách thức. Trong phản biện, gần như không thể có trường hợp tranh luận mà đi đến mục tiêu khác nhau, đối lập nhau (lưu ý, mục tiêu chứ không phải kết quả). Thí dụ: Đồng chí bí thư chi bộ muốn sớm kết nạp một cảm tình đảng gần đây có nhiều thành tích nổi bật trong công tác, nhưng một số đảng viên khác cho rằng cần có thêm nhiều thời gian để rèn luyện, thử thách, bởi có một số biểu hiện cho thấy cảm tình đảng này tuy có năng lực tốt nhưng sớm có thái độ tự mãn, có lối sống chưa chan hòa với mọi người… Liên tục trong nhiều kỳ sinh hoạt, trong chi bộ luôn có tranh luận này và vì vậy chi bộ chưa thể biểu quyết để ra nghị quyết kết nạp… Trong trường hợp này, ý kiến của các đảng viên đề nghị chậm kết nạp mang tính phản biện, chứ không phải phản bác, càng không phải phản kháng. Mục tiêu là kết nạp được một cảm tình đảng xứng đáng, một quần chúng ưu tú, mục tiêu đó giữa bí thư chi bộ và các đảng viên khác thống nhất; còn kết quả là việc kết nạp sớm hay muộn, lại có sự khác nhau giữa bí thư và một số đảng viên…

 

Chuyện xưa kể rằng, một họa sĩ nổi tiếng Hy Lạp rất nghiêm khắc với chính mình thường nghiêm túc lắng nghe các lời chỉ trích, phê bình, đồng thời còn thuyết phục để người khác phê bình, nhằm rút kinh nghiệm để nâng cao tài năng của mình. Thường thì ông bày tranh của mình mới vẽ ở chỗ đông người rồi nấp đi để nghe người khác phê phán. Một hôm, có một người thợ giày để chỉ vào bức tranh vẽ người lính cưỡi ngựa mà nói rằng giày của người lính vẽ không đúng. Người họa sĩ lắng nghe và ngay sau đó đã sửa lại chi tiết này. Ngày hôm sau, thấy bức tranh đã được sửa chữa, người thợ giày đắc ý cho rằng họa sĩ kém hơn mình nên anh ta phê phán gần như tất cả các chi tiết trong bức tranh. Cực chẳng đã, họa sĩ phải từ trong chỗ nấp bước ra mà nói: “Anh thợ giày ơi, xin anh chớ cao lên quá chiếc giày!”.

 

Như vậy, trong câu chuyện này, lúc đầu, người thợ giày với kiến thức chuyên môn của mình có cùng mục tiêu với họa sĩ, khi đó anh ta đã đóng vai trò người phản biện tích cực; nhưng sau đó, anh ta đã đi quá xa chuyên môn của mình nên mục tiêu phản biện của anh đã không còn phù hợp với chính anh và với họa sĩ. Khi đó, anh ta là người phản bác một cách ngây ngô.

 

Trên thực tế, muốn phản biện thành công, người phản biện trước hết phải kiến thức vững chắc ở lĩnh vực mình muốn phản biện, đồng thời phải có quan điểm, lập trường rõ ràng, phản biện vì mục tiêu gì, phản biện với đối tượng cụ thể nào, vì lợi ích của ai… Nếu người phản biện không thể hiện được chính kiến phù hợp, không xác định rõ đối tượng phản biện, không vì lợi ích xã hội… thì phản biện không có kết quả hoặc sa vào phản bác, từ đó đi đến phản kháng.

 

Đón xem các bài tiếp theo: Trách nhiệm của cán bộ, đảng viên đối với vấn đề phản biện xã hội; Cảnh giác trước hoạt động lợi dụng phản biện xã hội để xuyên tạc, chống phá Đảng và Nhà nước ta.

 

BÀI 3: TRÁCH NHIỆM CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI

 

 

 

Phản biện đối với các vấn đề cụ thể thường được giao cụ thể cho một số cơ quan, đơn vị, nhất là Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu… Tuy nhiên, phản biện xã hội có thể nói là trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi công dân trước bất kỳ vấn đề nào của xã hội, của đất nước.

 

Phản biện với các vấn đề của xã hội

 

Hiểu một cách rộng nhất, chung nhất, “phản biện xã hội là phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân, ý thức trách nhiệm của nhân dân trong việc tham gia quản lý nhà nước... Nhân dân không chỉ có quyền mà còn có trách nhiệm tham gia hoạch định và thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Phản biện xã hội là nhu cầu cần thiết và đòi hỏi bắt buộc của quá trình lãnh đạo và điều hành đất nước, khắc phục tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực khác”[9]. Như vậy, phản biện được xác định là trách nhiệm của nhân dân nên càng là trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên.

 

Sứ mệnh và trách nhiệm lãnh đạo, quản lý mọi mặt đời sống xã hội của đất nước hiện nay thuộc về Đảng và Nhà nước Việt Nam. Trong khi đó, Đảng “là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc” và đảng viên “là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân” (Điều lệ Đảng). Như vậy, Đảng và đảng viên có trách nhiệm với mọi vấn đề của đất nước, của xã hội. 

 

Hiện nay, có không ít ý kiến cho rằng đạo đức xã hội đang xuống cấp; các tội ác diễn ra ngày càng nhiều, có một số trường hợp thể hiện sự man rợ, tàn bạo; các giá trị đạo đức truyền thống có dấu hiệu phai nhạt; hiện tượng người dân bức xúc với các vụ việc, cá nhân nào đó (có trường hợp với người thi hành công vụ) đã hành xử bạo lực (dư luận gọi là “tự xử” thay vì báo cho cơ quan có thẩm quyền xử lý)… Từ đó có người quy trách nhiệm cho sự lãnh đạo của Đảng, từ nền giáo dục, trong việc quản lý đảng viên đến việc giải quyết các vấn đề bức xúc của người dân. Trách nhiệm phản biện của đảng viên trong trường hợp có thể thể hiện ở một số góc độ như: bản thân tự giác thể hiện và vận động người thân có thái độ, hành vi, hoạt động phù hợp với các chuẩn mực đạo; bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình về vấn đề đạo đức xã hội một cách tích cực, xây dựng và có phương pháp phù hợp; mạnh dạn phê phán các biểu hiện không phù hợp chuẩn mực đạo đức trong cơ quan, đơn vị; hiến kế các giải pháp khắc phục; phản bác các luận điệu lợi dụng vấn đề này để bôi nhọ Đảng, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng…

 

Bên cạnh đó, đảng viên cũng có trách nhiệm tham gia ý kiến với nhiều vấn đề khác, như góp ý cho các dự án luật, các quy định của các cơ quan nhà nước; tham gia các diễn đàn có tính xây dựng (như giải quyết vấn đề ùn tắc giao thông, để xuất biện pháp phòng ngừa dịch bệnh…); có ý kiến định hướng với các chủ trương phù hợp; giải thích các chính sách có ý kiến khác nhau, đồng thời phản bác các ý kiến lệch lạc… Tức là, mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn đặt trong tâm thế đưa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước thể hiện được "ý Đảng hợp với lòng dân", trong trường hợp ý Đảng khác với lòng dân thì phải xem lại liệu có cần thiết phải góp ý, phản biện để điều chỉnh ý Đảng hay không.

 

Sự phản biện của cán bộ, đảng viên phải dựa trên sự độc lập tư duy, có chính kiến riêng, không nói theo số đông, theo phong trào… và chấp nhận phê phán để đi đến mục tiêu tốt nhất. “Chính sự độc lập suy nghĩ và mạnh dạn phê phán là yếu tố bảo đảm cho sự ra đời những phát minh và sáng tạo. Sự phê phán biểu hiện ở việc không bằng lòng, không thỏa mãn, thậm chí hoài nghi và tiếp tục bổ sung, sáng tạo trước những vấn đề tưởng như đã được giải quyết xong xuôi thường là sự phê phán có tính cách mạng”[10].

 

Phản biện với các vấn đề trong Đảng

 

Các vấn đề trong công tác xây dựng Đảng như công tác tư tưởng, công tác tổ chức, công tác kiểm tra – giám sát, công tác vận động quần chúng, việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, các thủ tục hành chính trong Đảng… đều có thể là trở thành đối tượng phản biện. Mỗi 5 năm, Đảng ta tổ chức đại hội đảng các cấp, đây là dịp để mỗi cán bộ, đảng viên bày tỏ ý kiến, nguyện vọng của mình với các vấn đề của Đảng, của đất nước. Cán bộ, đảng viên có thể nêu ý kiến về bất cứ vấn đề nào, kể cả điều đó trái với các quy định hiện hành, trên cơ sở thực tiễn tồn tại, các phân tích có lý có tình và tinh thần xây dựng vì sự phát triển của Đảng.

 

Lâu nay, không có nhiều ý kiến phản biện một cách cụ thể, thẳng thắn về các vấn đề trong Đảng, nhưng đó đây, dưới nhiều hình thức, nhiều người đã mạnh dạn phản biện với một số biểu hiện trong Đảng, mà những biểu hiện đó do việc chưa thực hiện nghiêm các nguyên tắc của Đảng, do những hạn chế trong lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, từ Trung ương đến cơ sở. Chẳng hạn, trong vấn đề cán bộ, có khá nhiều ý kiến nêu công khai trên mặt báo, ở các diễn đàn chính thức về tình trạng chạy chức, chạy quyền, nhóm thân hữu, cục bộ địa phương… Chính Đảng ta đã nhìn nhận những tồn tại trong vấn đề này, như Nghị quyết Đại hội XII đã nêu: “Việc đổi mới công tác cán bộ chưa có đột phá lớn. Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu nhất qua nhiều nhiệm kỳ nhưng chưa có những tiêu chí cụ thể và giải pháp khoa học để khắc phục. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy bằng cấp... chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Đội ngũ cán bộ cấp Trung ương, cấp chiến lược chưa được tập trung xây dựng. Chưa quan tâm đúng mức đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ tham mưu, tư vấn cấp chiến lược. Công tác quy hoạch ở một số nơi còn khép kín, chưa bảo đảm sự liên thông, gắn kết. Tỉ lệ cán bộ lãnh đạo và cấp ủy là người dân tộc thiểu số, cán bộ nữ, cán bộ trẻ, việc luân chuyển bố trí một số chức danh cán bộ lãnh đạo không là người địa phương thực hiện chưa đạt yêu cầu. Những hạn chế, khuyết điểm trong công tác cán bộ là một trong những điểm yếu, cản trở sự phát triển”.

 

Hay vấn đề tham nhũng, các phản ứng, bức xúc của của cán bộ, đảng viên là rất rõ ràng và không ít người đã nêu lên những hiện tượng cụ thể, chỉ ra những hạn chế, yếu kém, đề xuất những giải pháp để khắc phục vấn đề này. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng cũng thừa nhận: “Chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và xử lý tổ chức đảng và đảng viên vi phạm chưa cao, chưa đủ sức góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong nội bộ Đảng”; “Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như tham nhũng, lãng phí, “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới”; “tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp”; “Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu đề ra; tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng”… Ngày 31-7 vừa qua, tại phiên họp thứ 12 Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng ban Chỉ đạo, đã phát biểu: “Cái lò đã nóng lên rồi thì củi tươi vào đây cũng phải cháy. Củi khô, củi vừa vừa cháy trước, rồi cả lò nóng lên, tất cả các cơ quan vào cuộc, có ai đứng ngoài đâu. Và không thể đứng ngoài được. Cá nhân nào muốn không làm cũng không thể được, thế mới là thành công”. Điều đó thể hiện quyết tâm rất lớn của người đứng đầu Đảng. Dù vậy, để cuộc chiến này giành thắng lợi, cần có sự chung tay, góp sức của cả hệ thống chính trị, của toàn thể đảng viên, trong đó có việc mạnh dạn phản biện các vấn đề trong Đảng liên quan đến việc chống tham nhũng.

 

Phản biện với các vấn đề trong tổ chức đảng, trong cơ quan, đơn vị

 

Tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị là nơi tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước theo chức năng, nhiệm vụ của mình, trên tinh thần phục vụ nhân dân. Trên thực tế, có không ít vấn đề hạn chế, tồn tại, thậm chí sai sót, cần được chỉ ra, phản biện. Với tinh thần trách nhiệm cao, không thụ động, độc lập suy nghĩ, tư duy có phương pháp khoa học…, đảng viên cần thể hiện tiếng nói của mình trong những vấn đề cụ thể mà mình thấy được, biết được.

 

Chẳng hạn, với tổ chức đảng, việc phổ biến, quán triệt nghị quyết đại hội đảng các cấp là trách nhiệm đương nhiên, nhưng nếu phát hiện cấp ủy nào đó, nhất là cấp ủy ở tổ chức đảng mình đang sinh hoạt, có biểu hiện lơ là, thiếu trách nhiệm, làm lấy có, không có biện pháp kiểm tra, giám sát phù hợp trong việc tổ chức nghiên cứu, học tập nghị quyết của cấp trên thì phải có ý kiến ngay. Bởi việc tổ chức không tốt việc quán triệt nghị quyết đồng nghĩa với việc không cung cấp đầy đủ, đúng đắn thông tin, chủ trương của Đảng cho đảng viên về một vấn đề nào đó, cũng là làm khả năng tổ chức và lãnh đạo thực hiện, định hướng dư luận của đảng viên bị hạn chế, tức là làm cho chủ trương đó chậm hoặc khó đi vào cuộc sống.

 

Hay trong đơn vị có những quyết định sai về mặt chủ trương, đường lối hoặc không sai so với quy định nhưng không có lợi cho tổ chức đảng, cho nhân dân mà chỉ có lợi cho một nhóm nhỏ nào đó, thì đảng viên phải lên tiếng. Một tổ chức đảng thực hiện kết nạp đảng luôn vượt chỉ tiêu, được cấp trên khen ngợi, nhưng trong số đảng viên mới có một số người không đủ chuẩn chất, vì “quan hệ” với bí thư hoặc cấp ủy mà được ưu tiên, thì những đảng viên có trách nhiệm không thể thờ ơ mà cho qua. Bởi chính điều đó làm cho quần chúng thấy rằng việc vào Đảng không còn thiêng liêng mà tổ chức đảng trở thành nơi “trao đổi”, đồng nghĩa với việc làm cho uy tín của tổ chức đảng giảm sút, tức là hình của Đảng ít nhiều bị ảnh hưởng.

 

Mỗi đảng viên cần tự nhìn nhận rằng, uy tín, hình ảnh của tổ chức đảng, hay rộng hơn là vinh, nhục của Đảng, chính là của mình và bản thân phải có trách nhiệm với việc đó. Đảng viên phải luôn tự trang bị cho mình kiến thức, kỹ năng, nhận thức để nhìn nhận thấu đáo vấn đề, không bàng quan, không a dua, không thờ ơ trước bất kỳ vấn đề của Đảng, của đất nước, của xã hội, của tổ chức đảng mình đang sinh hoạt, của đơn vị mình đang công tác.

 

BÀI 4: PHƯƠNG PHÁP, THÁI ĐỘ VÀ TINH THẦN PHẢN BIỆN

 

Khi nhận xét thái độ ở những học trò của Pythagoras[11], những người nhắm mắt tin tưởng tuyệt đối mọi lời dạy của thầy giáo, Cicero[12] đã đặt ra cụm từ “Ipse dixit” – có nghĩa là “Người đã nói vậy” – nhằm phê phán niềm tin mù quáng rằng hễ các bậc tiền bối bề trên nói gì cũng đều là sự thực. Điển tích này cũng nhằm khuyến khích mỗi người nên có tư duy phản biện, nhưng phản biện bằng cách nào, với thái độ, tinh thần như thế nào cũng là điều rất quan trọng.

 

Phương pháp phản biện

 

Phản biện một hoạt động mang tính khoa học nên cần có những phương pháp khoa học. Phương pháp đó có một số điểm đáng quan tâm:

 

Thứ nhất, phản biện không phải là việc đưa ra một nhận định cảm tính, chủ quan mà cần đưa ra một nhận định kèm theo lý lẽ và dẫn chứng. Khi bí thư chi bộ nêu ý kiến đưa cảm tình đảng A. ra chi bộ để xem xét kết nạp thì nếu có phản biện, ý kiến đó cần phân tích xem đồng chí A. có xứng đáng được kết nạp chưa, nếu chưa thì dẫn chứng cụ thể là gì, như nhận thức về Đảng và động cơ vào Đảng có tích cực không, sự phấn đấu có rõ ràng không, việc hoàn thành các nhiệm vụ chuyên môn có tốt không, quan hệ ứng xử với mọi người như thế nào, biện pháp giúp đồng chí A. khắc phục các biểu chưa tích cực là gì… Các ý kiến này dựa trên thực tế khách quan chứ không phải “yêu nên tốt ghét nên xấu”, tuyệt đối tránh thành kiến. Do đó, không thể phản biện bằng lý thuyết suông hoặc nhìn nhận phiến diện, một chiều, nhất là khi có định kiến.

 

Thứ hai, biết tự phản biện. Trước khi nêu ra ý kiến phản biện người khác, bản thân phải biết tự rà soát, kiểm tra, đánh giá luận điểm, luận cứ, luận chứng của mình thực sự phù hợp không, có sơ hở hay sai sót nào không, kể cả phương pháp phản biện có hợp lý và thuyết phục không. Điều đó đòi hỏi người phản biện phải có tinh thần làm việc nghiêm túc, khách quan, khoa học. Khi phản biện việc bí thư chi bộ đề nghị sớm kết nạp cảm tình đảng A. thì các vấn đề cần cân nhắc là gì, có chứng cứ hay sự việc cụ thể không, hay chỉ nghe dư luận; việc phản biện bắt đầu từ đâu, từ việc phủ nhận toàn bộ những điểm mà bí thư cho là phấn đấu hay phủ nhận một số điểm có thể dẫn chứng, các dẫn chứng đó có thực sự thuyết phục không… Do đó, phản biện không chỉ trong tâm thế cùng mục tiêu (dù kết quả có thể khác nhau) mà còn cần cùng vị thế (về chỗ đứng của người phản biện, về hiểu biết vấn đề, về động cơ…), nếu không việc phản biện sẽ dễ đi đến phản đối hoặc phản biện không có kết quả thỏa đáng.

 

Thứ ba, phản biện cần được thực hiện trong một khuôn khổ. Phản biện không phải phản đối, càng không phải là phản kháng nên cần được thực hiện trong một khuôn khổ nhất định. Với đảng viên, đó là thực hiện trong tổ chức đảng, thường đi theo trình tự, từ dưới lên trên (phát biểu trong chi bộ, gửi đơn thư chính danh đến cơ quan có thẩm quyền và báo cáo rõ điều đó với cấp ủy, với chi bộ nếu vấn đề đó cần được chi bộ giám sát…), là thực hiện trong các diễn đàn (hội nghị, hội thảo, tọa đàm…) chính thức, công khai, là thực hiện bằng các phương tiện chính thức và phù hợp với các quy định của Đảng (gửi thư góp ý nhân Đại hội Đảng, gửi ý kiến phản biện đến các cơ quan truyền thông chính thức trong nước…)[13]. Vì vậy, phản biện việc kết nạp đảng trong chi bộ thì trước hết phải được thực hiện trong chi bộ, nếu thấy có những vấn đề phức tạp thì có thể báo cáo lên cấp ủy cấp trên nhưng cần nói rõ điều đó trước chi bộ. Tuyệt đối không loan truyền ý kiến riêng ra ngoài tổ chức với dụng ý phản đối bí thư hoặc cấp ủy khi sự việc còn chưa ngã ngũ.

 

Thái độ, tinh thần phản biện

Phương pháp phản biện quan trọng nhưng thái độ, tinh thần phản biện cũng quan trọng không kém. Đó là động cơ, trạng thái của người phản biện trước vấn đề cần phản biện và trước người được phản biện.

 

 

Thứ nhất, phản biện cần sự độc lập tư duy, không nên theo trào lưu hoặc theo số đông. Khi phát hiện vấn đề cần phản biện, nếu thực sự có trách nhiệm và có đủ cơ sở khoa học, thực tiễn, mỗi cán bộ, đảng viên cần mạnh dạn thực hiện quyền phản biện (cả quyền chất vấn) của mình chứ không phải đợi khi đã có nhiều người lên tiếng. Bởi phản biện xuất phát từ sự độc lập suy nghĩ và chỉ có độc lập suy nghĩ mới tự tìm ra phương pháp, nội dung để phản biện. Đôi lúc, ý kiến của số đông chưa hẳn là chân lý, bởi trong đó nhiều người thực ra chỉ a dua theo người khác chứ không thực sự có chủ kiến. Nếu bản thân thấy rằng cảm tình đảng A. cần thời gian thử thách nhiều hơn, rằng còn có một số cảm tình đảng khác xứng đáng được kết nạp sớm hơn, thì có thể mạnh dạn phản biện, không nhất thiết chờ xem có ai đồng quan điểm với mình không hoặc khi đã nêu ra vấn đề rồi mà nhiều người chưa tán đồng thì cũng không vội vàng rút lại phản biện…

 

Thứ hai, phản biện phải trên cơ sở tôn trọng người được phản biện và những người có liên quan. Người phản biện thực ra chỉ tập trung vào phản biện vấn đề chính thôi, không quá chú tâm vào con người cụ thể, dẫu vậy, cũng cần hiểu rõ các chủ thể liên quan để có phương pháp phản biện hợp lý, thuyết phục. Phản biện việc kết nạp đảng của đồng chí A. thì không nên công kích bí thư đã ưu ái, thiên vị A., càng không thể vạch ra các điểm hạn chế, khuyết điểm của A. nếu nó không liên quan gì đến tiêu chuẩn kết nạp đảng. Do đó, không nên đả kích cá nhân, phải tập trung làm rõ các luận điểm chứ không đi vào phê phán cá nhân, đồng thời phải biết lắng nghe một cách cầu thị, chân thành, thẳng thắn.

 

Thứ ba, phản biện cần kiên trì nhưng cũng biết dừng lại đúng lúc. Vì bản chất của phản biện là nhằm đạt đến một mục tiêu tốt nhất có thể nên nếu mục tiêu đó chưa đạt thì cần kiên trì, với nhiều hình thức và nội dung phù hợp. Người đảng viên chưa đồng tình việc kết nạp cảm tình đảng A. có thể trình bày ý kiến của mình ở các kỳ họp, nhưng khi chi bộ đã biểu quyết mà ý kiến của mình thuộc thiểu số thì nên chấp hành nghị quyết. Với người mới được kết nạp, không nên có thái độ kỳ thị, thành kiến mà cần chân thành giúp đỡ, chia sẻ để đồng chí mình tiến bộ hơn. Nếu tiếp tục phản biện trong khi đồng chí đó không có biểu hiện gì sai trái, việc đề xuất kết nạp không vi phạm các quy định của Đảng thì có thể trở thành hành động phản đối, thậm chí phản kháng chứ không còn là phản biện.

 

Thứ tư, cần một thái độ mềm dẻo, ôn hòa, tinh thần xây dựng thực sự vì mục đích tiến bộ, phát triển. Phản biện có thể xem là một nghệ thuật khi bên cạnh nội dung hợp lý cũng còn cần cách thức hợp lý, đó là phải tránh thái độ, lời lẽ nóng nảy, đặc biệt là tránh thái độ xúc phạm người được phản biện. Phản biện dù có động cơ và mục đích đúng đắn nhưng nếu thái độ không phù hợp rất dễ sa vào phản bác, bởi động cơ và mục đích đó sẽ không được nhìn nhận đúng đắn. Chẳng hạn, vội vàng mất bình tĩnh khi cho rằng đồng chí bí thư có động cơ cá nhân hoặc đã sai lầm khi đề xuất kết nạp cảm tình đảng A. thì dễ tạo ra hình ảnh đối đầu và công kích cá nhân giữa bản thân với bí thư chi bộ trong mắt của các đảng viên khác. Hẳn nhiều đảng viên sẽ nghĩ rằng đây là tranh chấp cá nhân dưới danh nghĩa một hoạt động của chi bộ, họ sẽ khó nhìn thấy động cơ đúng đắn và dễ có cảm nhận sai lệch về bản chất sự việc. Do đó, phản biện phải bằng thái độ hòa nhã, tránh dùng lời lẽ đao to búa lớn, tránh quy kết lệch lạc hay công kích cá nhân bằng thái độ hằn học…

 

Như vậy, “trong nội dung phản biện có phần phản bác những gì không đúng, không hợp lý, thậm chí phản bác toàn bộ (…) nhưng đều xuất phát từ tinh thần xây dựng, hợp tác với lý lẽ phân tích đầy đủ nhưng bình tĩnh, hoặc trình bày thực tiễn đã được khảo sát công phu và dùng thực tiễn để bác bỏ một cách thuyết phục”[14]. Tức là, phải tuyệt đối tránh hiện tượng chỉ cho ý kiến của mình là đúng, cho rằng ai không tiếp thu ý kiến của mình là thiếu dân chủ, không tôn trọng người đối thoại, bất kể ý kiến của mình có khách quan không, có hợp lý hay không.

 

Phản biện gắn với yếu tố kỷ luật

 

Phản biện của cán bộ, đảng viên phải gắn chặt chẽ với yếu tố kỷ luật, đó là tuân thủ đầy đủ các quy định về những điều đảng viên không được làm, trong đó có Quy định 47-QĐ/TW ngày 1-11-2011 của Ban Chấp hành Trung ương. Chẳng hạn, ở nội dung đầu tiên, đảng viên phải không “nói, làm trái hoặc không thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, kết luận của Đảng; làm những việc mà pháp luật không cho phép”. Như vậy, không thể nhân danh phản biện mà “Phát ngôn, trả lời phỏng vấn, viết bài cho báo chí (kể cả báo chí nước ngoài) có nội dung trái với Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, quy chế, kết luận của Đảng và pháp luật của Nhà nước” hay “Làm những việc pháp luật không cấm nhưng ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, vai trò tiên phong gương mẫu của đảng viên” (khoản a), khoản c) Hướng dẫn 03-HD/UBKTTW ngày 15-3-2012).

 

Bên cạnh đó, cũng phải tránh thái độ “tỏ ra phản biện”, đó là dùng lời lẽ có vẻ phản biện rất nghiêm túc, chính đáng nhưng ở nơi không phù hợp, như trong các cuộc trà dư tửu hậu, ở các sinh hoạt không chính thức. Trên thực tế, có không ít người trong các sinh hoạt chính thức thì không phát biểu, cũng không bày tỏ chính kiến ở các kênh được thừa nhận mà nhưng lại nói rất hăng ở các nơi khác, tỏ ra mình có chủ kiến và có tinh thần phê bình cao, thái độ phản biện quyết liệt. Đây là một biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị mà Nghị quyết 04-NQ/TW khóa XII “về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ” đã nêu: “Nói và viết không đúng với quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nói không đi đôi với làm; hứa nhiều làm ít; nói một đằng, làm một nẻo; nói trong hội nghị khác, nói ngoài hội nghị khác; nói và làm không nhất quán giữa khi đương chức với lúc về nghỉ hưu”.

 

Ngoài ra, người phản biện có quyền đề nghị bảo lưu ý kiến nhưng tránh cố chấp, không thừa nhận mình đã phản biện chưa phù hợp hoặc khi sự việc có diễn tiến mới mà nội dung và cách thức phản biện không thay đổi thì có thể trở nên sai lầm. Chính điều đó thể hiện sự “đi ngược” của đảng viên trước các quy định chung, trước ý kiến của tập thể. Đây là không phải là tinh thần của phản biện, cũng không phải là ý thức tiên phong, gương mẫu, trách nhiệm của đảng viên.

 

Thái độ khoa học, cầu thị, tôn trọng lẫn nhau, có tinh thần trách nhiệm và động cơ trong sáng trong vấn đề phản biện sẽ tạo ra văn hóa phản biện. Đó chính là “thái độ chân thành mời góp ý cũng như góp ý; tiếp thu hay đóng góp đều từ lý lẽ khoa học và thực tiễn cuộc sống có tính thuyết phục, không cố chấp, tự cao tự đại; bình đẳng trong tranh luận; thẳng thắn nhưng thân ái, tôn trọng lẫn nhau trong tranh luận của những người chung mục đích vì đất nước, vì nhân dân”[15]. Điều này sẽ tạo nên giá trị của phản biện mà mỗi cán bộ, đảng viên nên ghi nhớ!

 

BÀI 5: CẢNH GIÁC TRƯỚC HOẠT ĐỘNG LỢI DỤNG PHẢN BIỆN XÃ HỘI ĐỂ XUYÊN TẠC, CHỐNG PHÁ ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA

 

Hầu như mọi người đều nhất trí rằng, để thực hành phản biện xã hội với ý nghĩa tích cực, cần tuân thủ là phải dựa trên nền tảng tri thức, thái độ khách quan, lấy lợi ích của cộng đồng làm mục đích... Nếu không phản biện xã hội sẽ dễ chỉ là ý kiến chủ quan, cảm tính và phiến diện, cực đoan, không đóng góp với tiến trình phát triển của xã hội, của đất nước, mà còn cản trở tiến trình đó. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có một số cá nhân xem phản biện xã hội được sử dụng như một "chiêu bài" để thực hiện một ý đồ, một mục tiêu nào đó hoàn toàn không nhằm mang lại lợi ích cộng đồng. Mỗi cán bộ, đảng viên phải cảnh giác với các chiêu bài đó.

 

Các “chiêu bài” cũ rích!

 

Có không ít kẻ tự cho mình là người “phản biện”, “tiến bộ”, thậm chí là “phản tỉnh”, nên thường có những ý kiến có vẻ phản biện về các vấn đề của Đảng, của Nhà nước, của đất nước. “Hiện nay có những ý kiến của các "nhà dân chủ", "nhà bất đồng chính kiến" trên mạng internet đang cố tình bóp méo nội hàm phản biện theo nghĩa hẹp, để công kích những thiếu sót này. Họ làm như vậy nhằm hai mục đích: Thu hút sự chú ý của người đọc đối với những bài viết của họ và tấn công trực diện vào uy tín của Chính phủ và Đảng ta, phủ nhận tất cả những thành quả mà đất nước đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng. Không dừng lại ở đó, bằng các ngôn từ cay độc, vô văn hóa, họ tung hỏa mù, gây nhiễu thông tin, bóp méo, xuyên tạc, bôi nhọ cả các truyền thống và lịch sử Việt Nam”[16]. Đáng nói là những hoạt động này diễn ra thường xuyên, liên tục và có dấu hiệu ngày càng phức tạp hơn.

 

Các cách họ thường sử dụng là:

 

Thứ nhất, viết các “thư ngỏ”, “kiến nghị” gửi các cấp, nhưng thực ra đã đăng tải ở nhiều kênh không chính thống khác và xem đó mới là con đường tán phát chủ yếu. Nếu một cá nhân có ý thức xây dựng, muốn đóng góp với Đảng và Nhà nước thì các ý kiến của họ sẽ được thể hiện ở các con đường chính thức, như gửi trực tiếp đến các đồng chí lãnh đạo, phát biểu ở các diễn đàn công khai, hợp pháp, nêu trên mặt báo chính thống trong nước… Thế nhưng, nhiều người đã chọn con đường nêu ý kiến của mình cho nhiều người biết hơn là thực tâm đóng góp.

 

Thứ hai, sử dụng mạng xã hội, blog, website cá nhân… để tán phát các ý kiến tiêu cực, đi ngược với chủ trương, đường lối. Sự phát triển của internet đã “tạo điều kiện” cho nhiều người sử dụng làm kênh tán phát quan điểm, ý kiến của mình, dù quan điểm, ý kiến đó không phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng. Bởi như đã nêu ở các bài viết trước, khi không có cùng mục tiêu, khi phương pháp không phù hợp thì tính chất phản biện không thể hiện rõ, nó có thể là một dạng phản bác, bác bỏ, phản kháng chứ không có tính xây dựng.

 

Thứ ba, trả lời phỏng vấn của các đài, báo nước ngoài có nội dung xuyên tạc đường lối lãnh đạo của Đảng, thực tế của đất nước. Sau khi một vài ý kiến được những kẻ “theo đóm ăn tàn” tung hê thì thường được các đài, báo nước ngoài vốn không có thiện cảm với đường lối lãnh đạo của Đảng mời phỏng vấn, viết bài và qua đó, các ý kiến không phù hợp lại một lần nữa được loan rộng rãi hơn. Chính đó là điều mà những người này mong muốn, hòng tạo ra cái gọi là “dư luận” để đánh lạc hướng những người thiếu thông tin, làm lung lạc những người không có lập trường vững chắc.

 

Thứ tư, có một số người nêu vài nội dung mang tính phản biện nhưng bằng hình thức công kích, bóp méo sự thật nên về thực chất, không còn ý nghĩa phản biện. Ở một mức độ lập lờ và dễ gây nhầm lẫn hơn, trường hợp này có thể làm những ai cả tin ngộ nhận là người có thái độ phản biện đúng mực nên ủng hộ hoặc nghe theo, thậm chí còn giúp đó tán phát quan điểm đó. Đây là chiêu bài nguy hiểm nếu người tiếp nhận thông tin không có sự thận trọng cần thiết.

 

Rõ ràng, “nếu một mặt phản biện có thể giúp điều chỉnh xã hội từ vi mô tới vĩ mô, thì mặt khác, phản biện là biểu thị cho tính dân chủ của xã hội. Vấn đề là ở chỗ, phản biện phải hướng tới ổn định và phát triển xã hội - con người, không thể chấp nhận phản biện nhằm gây mơ hồ, làm lạc hướng nhận thức chung, tiến công vào nguyên tắc tổ chức và hệ thống chính trị của xã hội”[17]. Còn đàng này, những ý kiến có vẻ phản biện này đôi lúc ít nhiều gây ra sự ngộ nhận, nhầm lẫn trong dư luận, khiến một số người hiểu sai về hiện tình đất nước; những ý kiến đó có tính phá hoại hơn là xây dựng.

 

Thận trọng khi tiếp nhận thông tin!

 

Trong “ma trận” thông tin, quan điểm về đủ các vấn đề của xã hội, của đất nước, nếu các cán bộ, đảng viên không đủ tỉnh táo, không đủ thông tin và thiếu bản lĩnh sẽ dễ cho rằng những ý kiến đó “đáng suy nghĩ”, “có lý”, thậm chí “cần ủng hộ”. Chẳng hạn, với một số thông tin về lãnh tụ, biên giới, chủ quyền biển và hải đảo, quan hệ với một số nước…, vốn có rất nhiều thông tin khác nhau, trong đó có những thông tin sai lệch, phiến diện, có dụng ý xuyên tạc, vẫn được một số người viện dẫn cho sự “phản biện” của mình.

 

Với những thông tin này, mỗi cán bộ, đảng viên cần lưu ý mấy điểm:

 

Một là, nguồn gốc thông tin đó ở đâu? Thông tin đó được lấy từ đâu dĩ nhiên rất quan trọng, bởi có những thông tin không rõ nguồn, chỉ được viện dẫn rất vu vơ hoặc xuất phát từ “nghe nói”, từ những người vốn có thành kiến với Đảng hoặc từ những người đã mất… Nên khi nguồn gốc thông tin không rõ ràng thì không vội vàng tin vào độ chính xác của thông tin đó.

 

Hai là, thông tin đó đã được kiểm chứng chưa? Thông tin được nêu ra nhưng đã có xác nhận từ nơi đáng tin cậy là chính xác chưa hay chỉ được ai đó nêu lên mà đã vội cho rằng thông tin đó là đúng đắn? Dĩ nhiên, sự kiểm chứng phải dựa trên các căn cứ khoa học và người đọc cũng nên đối chiếu với các nguồn thông tin khác để khẳng định tính chính xác của nó.

 

Ba là, thông tin đó thực ra có lợi cho ai? Một số người sử dụng phương thức “cắt cúp” để lọc lấy các thông tin có thực nhưng chỉ là một chi tiết trong một chuỗi sự việc nên thông tin đó chỉ có lợi cho ai đó. Khi thông tin chỉ có lợi cho người này mà bất lợi cho người kia thì phải hoài nghi tính chính xác của nó.

 

Bốn là, người sử dụng thông tin đó để phản biện liệu có đáng tin cậy không? Khi các thông tin không bảo đảm chính xác, khách quan thì việc sử dụng nó để làm cơ sở, căn cứ phản biện phải được đặt dấu hỏi lớn, chứ không được chỉ nhìn vào việc phản biện mà không xem xét các vấn đề nền tảng của nó.

 

Như vậy, mỗi cán bộ, đảng viên phải có “bộ lọc” và có chủ kiến của mình khi tiếp cận các vấn đề phản biện của một số người, nhất là những người được “ca ngợi” là “nhà dân chủ”, “nhà bất đồng chính kiến”… Không nên vội vàng tin ngay vào các ý kiến có vẻ phản biện của ai đó khi mình chưa xác định được đầy đủ về tính chính xác của thông tin, động cơ của việc nêu ý kiến đó…

 

Đừng tiếp tay cho kẻ xấu!

 

Khi chưa làm rõ được mục đích, động cơ của những người “có vẻ phản biện” thì mỗi cán bộ, đảng viên chúng ta nên thận trọng trong việc tiếp nhận, chia sẻ, tán phát, ủng hộ… Trên thực tế, có một số người “cả tin” hoặc “vô tư” đọc rồi truyền tay (đối với các văn bản) hoặc like, share (đối với mạng xã hội), dù không hoàn toàn ủng hộ ý kiến đó, bởi chỉ đơn giản cho rằng đó là một loại ý kiến cần được quan tâm, nghiên cứu. Đây là điều rất tai hại, vì khi bản thân chưa dứt khoát được rằng loại ý kiến đó đúng hay sai, tích cực hay tiêu cực và cũng chưa bày tỏ thái độ rõ ràng với nó mà đã góp phần làm thông tin tán phát đến nhiều người khác, tức là gián tiếp tạo điều kiện cho thông tin loang rộng hơn, dễ được người khác hiểu rằng người tán phát đã ủng hộ nó. Bởi khi bấm “like” một bài viết của ai đó trên mạng xã hội thì bài viết đó có thể sẽ tự động xuất hiện trong tầm mắt của bạn bè trong danh sách kết bạn. Hay khi nêu lại ý kiến của ai đó mà không tỏ rõ chính kiến về vấn đề đó thì cũng sẽ không ngăn chặn được người tiếp nhận lại đi loan tin đó đến người khác. Và cứ như thế, một số người vô tình làm “cái loa tuyên truyền” cho những phần tử nào đó để ý kiến sai trái của họ đến được với nhiều người hơn. Do đó, với một số ý kiến phản biện, ý thức cảnh giác là không bao giờ thừa.

 

Trong nhiều trường hợp, bên cạnh không làm thông tin tán phát rộng hơn, mỗi cán bộ, đảng viên cần mạnh dạn bày tỏ chính kiến của mình với một số vấn đề mà mình thấy là tiêu cực, nguy hiểm. Đó là: khi dẫn lại thông tin, ý kiến đó với người khác phải nêu rõ điểm sai trái, xuyên tạc theo quan điểm cá nhân của mình; nếu không nêu được chỗ sai trái thì cũng bày tỏ sự hoài nghi của mình để người nghe không ngộ nhận rằng người nói đang ủng hộ ý kiến đó. Tích cực hơn là nên phân tích rõ những điểm (mà theo mình) là không phù hợp, là sai trái để người nghe ít nhất có một ấn tượng về điều đó để họ suy nghĩ thêm và tự có chính kiến của mình. Dĩ nhiên, việc phản bác cũng rất cần thiết đối với các ý kiến tỏ ra phản biện nhưng kỳ thực là các chiêu bài của ai đó; việc phản bác, đấu tranh có thể nói trực tiếp với người nào đó (có thể là người nêu ý kiến hoặc là người tiếp nhận ý kiến), trao đổi trong các sinh hoạt chính thức (sinh hoạt chi bộ, các hội nghị…), phản bác trực diện ngay trong phần bình luận bên dưới ý kiến được đăng tải trên mạng xã hội, blog, web… (nếu có chức năng bình luận), viết bài phê phán đăng trên các báo…

 

Tóm lại, phản biện là trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên đối với các vấn đề của Đảng, của đất nước, của xã hội, của tổ chức đảng, của đơn vị… Phản biện phải được thực hiện trên tinh thần trách nhiệm với mong muốn đạt được một mục tiêu tốt nhất, bằng các hình thức, phương pháp và thái độ phù hợp. Tuy nhiên, với một số ý kiến có vẻ mang tính phản biện, mỗi cán bộ, đảng viên cần tiếp nhận với thái độ thận trọng và cảnh giác, để xác định rõ xem động cơ, mục đích của nó là gì. Trong trường hợp phát hiện nó chỉ là một chiêu bài để nhằm gây chia rẽ, hoang mang trong dư luận, xuyên tạc tình hình thực tế… thì mỗi cán bộ, đảng viên phải có biện pháp đấu tranh phù hợp, hay ít nhất cũng không được làm cho ý kiến đó tán phát rộng rãi hơn!

 
Văn Tâm 
Tạp chí Sổ tay Xây dựng Đảng


[1] https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C6%B0_duy_ph%E1%BA%A3n_bi%E1%BB%87n

[2] Từ điển tiếng Việt giải thích, phản biện là “Đánh giá chất lượng một công trình khoa học khi công trình được đưa ra bảo vệ để lấy học vị trước hội đồng chấm thi”.

[3] TS. Phạm Thị Ly, Tư duy phản biện là gì, bản dịch từ bài viết của GS. Russell Brooker, http://www.lypham.net/?p=1110.

[4] Trên thực tế, với một số chủ trương, chính sách đã được ban hành, nếu phát hiện có những vấn đề chưa phù hợp, không hiệu quả, hoặc sai sót, thì các tổ chức, cá nhân cũng có thể tham gia phản biện.

[5] PGS.TS. Trần Hậu, Phản biện xã hội, Tạp chí Lý luận chính trị, số 12-2014.

[6] https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0ng_c%E1%BA%A7u_d%C3%A2n_%C3%BD. Trong Hiến pháp năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi là “phúc quyết”, hàm ý đó là quyết định cuối cùng.

[7] Ngày 23-6-2016, Vương quốc Anh (UK) tổ chức cuộc trưng cầu dân ý về việc có rời khỏi Liên minh châu Âu (EU) hay không. Đối với những người thuộc phe ủng hộ việc ở lại EU, khái niệm Bremain được nhắc đến song song với từ Brexit, tức là rời khỏi EU. Kết quả chính thức được công bố vào ngày 24-6, phe Brexit giành chiến thắng với khoảng cách 1 triệu phiếu (51,89% số phiếu). Tuy nhiên, ngay sao khi có kết quả, nhiều người đã bỏ phiếu ủng hộ Brexit tỏ ra hối hận với quyết định của mình và biểu tình đòi tiến hành trưng cầu dân ý lại.

 

[8] PGS.TS. Trần Hậu, tài liệu đã dẫn.

[9] Nguyễn Văn Thạo, Nguyễn Viết Thông (đồng chủ biên), Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.239-240.

[10] TS.Hoàng Văn Tuệ, Vấn đề phản biện xã hội với yêu cầu thực tế hiện nay, Tạp chí Triết học số 4-2006.

[11] Pythagoras (còn gọi là Pythagore, thế kỷ thứ VI TCN) là nhà triết học người Hy Lạp cổ đại, là người sáng lập ra phong trào tín ngưỡng có tên là học thuyết Pythagoras. Ông thường được biết đến như một nhà khoa học và toán học vĩ đại, là người chứng minh định lý nổi tiếng mang tên ông.

[12] Marcus Tullius Cicero 106 – 43 TCN) là một triết gia và nhà hùng biện, chính khách, nhà lý luận chính trị người tiếng người La Mã cổ đại.

[13] Theo Hướng dẫn 03-HD/UBKTTW ngày 15-3-2012 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương về “thực hiện Quy định số 47-QĐ/TW ngày 1-11-2011 của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm”,không coi là vi phạm trong các trường hợp: phát biểu, nêu ý kiến khác nhau trong các cuộc hội thảo khoa học, cuộc họp, hội nghị, được các cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội có thẩm quyền tổ chức hoặc cho phép tổ chức theo quy định.

[14] Hữu Thọ, Phản biện và văn hóa phản biện, Tạp chí Tuyên giáo điện tử, ngày 4-9-2011, tại địa chỉ http://www.tuyengiao.vn/Home/Sinh-hoat-tu-tuong/34630/Phan-bien-va-van-hoa-phan-bien

[15] Hữu Thọ, tài liệu đã dẫn.

[16] Nguyễn Hạnh Ngân, Vạch trần chiêu trò "phản biện xã hội" của những kẻ cực đoan, Báo Biên phòng, ngày 16-12-2014.

[17] Huỳnh Tấn, Khi phản biện xã hội được sử dụng như một "chiêu bài"!, Báo Nhân dân, ngày 12-3-2013.

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất