Tác phẩm đoạt giải

Phòng, chống tham nhũng chính sách - vấn đề hệ trọng, cấp bách hiện nay

Đại hội XIII của Đảng xác định, hoàn thiện đồng bộ thể chế là đột phá đầu tiên trong 3 đột phá chiến lược để thúc đẩy đất nước phát triển bền vững. Tính đồng bộ của hệ thống chính sách, pháp luật thể hiện ở hệ thống pháp luật đầy đủ, cụ thể, minh bạch, làm cơ sở để xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển đất nước trên tất cả lĩnh vực. Để hiện thực hóa mục tiêu này, tại Kết luận số 19-KL/TW ngày 14-10-2021 “Về định hướng chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV”, một trong những yêu cầu mà Bộ Chính trị đưa ra là phải phòng, chống tiêu cực, tham nhũng, “lợi ích nhóm”, lợi ích cục bộ trong công tác xây dựng chính sách, pháp luật.

Bài 1: Tham nhũng chính sách lợi cho thiểu số, nguy hại cho nhân dân, đất nước

“Có 3 dạng tham nhũng: Tham nhũng tài sản vật chất, tham nhũng quyền lực chính trị và tham nhũng chính sách. Dạng tham nhũng nào cũng để lại nhiều hậu quả tai hại cho đất nước và nhân dân. Nếu tham nhũng vật chất gây thiệt hại tài sản Nhà nước, tham nhũng quyền lực chính trị gây thiệt hại cán bộ, thì tham nhũng chính sách gây thiệt hại niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ. Đó là dạng tham nhũng nguy hại nhất hiện nay”. Đó là nhận định của Thiếu tướng, Tiến sĩ (TS) luật học Nguyễn Mai Bộ, thành viên Nhóm chuyên gia 35 Quân ủy Trung ương, nguyên Ủy viên Thường trực Ủy ban Quốc phòng-An ninh của Quốc hội, nguyên Phó chánh án Tòa án Quân sự Trung ương, trong cuộc trao đổi với phóng viên Báo Quân đội nhân dân.

Thiếu tướng, Tiến sĩ luật học Nguyễn Mai Bộ.
 

Cảnh báo những hiện tượng cài cắm “lợi ích nhóm” và “bảo kê” chính sách

Phóng viên (PV): Cách đây một năm, ngày 14-10-2021, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 19-KL/TW “Về định hướng chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV". Kết luận của Bộ Chính trị nhấn mạnh, những năm qua, hệ thống pháp luật ở nước ta cơ bản đầy đủ, ổn định, tuy nhiên còn một số quy định còn bất cập, gây kìm hãm, cản trở sự phát triển của đất nước. Theo đồng chí, sự bất cập đó là gì?

Thiếu tướng, TS Nguyễn Mai Bộ: Trước hết phải khẳng định rằng, trong mấy nhiệm kỳ gần đây, Quốc hội hoạt động ngày càng chuyên nghiệp, hiệu quả hơn. Công tác lập pháp của Quốc hội ngày càng đi vào nền nếp, nhiều bộ luật, luật được ban hành góp phần tháo gỡ những điểm nghẽn, khơi thông những ách tắc, thúc đẩy kinh tế-xã hội đất nước phát triển, mọi mặt đời sống xã hội có chuyển biến rõ rệt. Chỉ tính nhiệm kỳ 2016-2021, Quốc hội khóa XIV đã ban hành 80 văn bản pháp luật, trong đó đa số các luật đều được chuẩn bị cơ bản chu đáo, công phu, vì lợi ích chung của nhân dân, của doanh nghiệp, của đất nước.

Tuy nhiên, như Kết luận số 19-KL/TW của Bộ Chính trị chỉ rõ, công tác xây dựng pháp luật vẫn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong tình hình mới. Vẫn còn tình trạng văn bản luật thiếu tính ổn định, “luật khung, luật ống” còn nhiều. Trong khi đó, vẫn còn biểu hiện tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật, lồng ghép “lợi ích nhóm”, lợi ích cục bộ của cơ quan quản lý nhà nước trong văn bản pháp luật.

PV: Đồng chí có thể nói rõ hơn “lợi ích nhóm”, lợi ích cục bộ trong công tác xây dựng pháp luật biểu hiện ở những khía cạnh nào?

Thiếu tướng, TS Nguyễn Mai Bộ: Theo luật định, quy trình soạn thảo, ban hành luật bao gồm các bước cơ bản như: Soạn thảo luật, nghị quyết; lấy ý kiến vào dự án luật, dự thảo nghị quyết; thẩm định dự án luật, dự thảo nghị quyết; Chính phủ xem xét, thông qua dự án luật, dự thảo nghị quyết để trình Quốc hội; thẩm tra dự án luật, dự thảo nghị quyết; Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến đối với dự án luật, dự thảo nghị quyết; thông qua dự án luật, dự thảo nghị quyết; công bố về luật. Về tổng thể, đó là quy định hết sức chặt chẽ, nếu làm đúng quy trình, khách quan, công tâm, công khai, minh bạch, bảo đảm chất lượng ở tất cả các bước thì có thể phòng ngừa được "lợi ích nhóm", lợi ích cục bộ trong công tác xây dựng pháp luật. Tuy nhiên, “lợi ích nhóm”, lợi ích cục bộ trong công tác xây dựng pháp luật có thể nảy sinh, xuất hiện ở cả 3 công đoạn.

Ở công đoạn đưa ra sáng kiến dự thảo luật, bộ, ngành là cơ quan chủ trì đưa ra mô hình tổng thể của dự thảo luật, chứng minh sự cần thiết, tính cấp bách phải xây dựng và ban hành luật. Ở công đoạn này, cơ quan quản lý nhà nước luôn cố gắng chứng minh, giải trình phương án chính sách đưa ra theo hướng có lợi cho bộ, ngành mình. Khi dư luận hoài nghi về sự cần thiết khách quan của dự thảo luật thì chủ thể xây dựng dự thảo luật tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm lấy ý kiến chuyên gia, nhà khoa học để rộng đường dư luận. Nhưng tôi được biết, thời gian qua, một số bộ, ngành chỉ mời những người ủng hộ quan điểm của họ, những người có ý kiến phản biện nghiêm túc, trách nhiệm thì họ không mời, từ đó dẫn tới kết quả hội thảo, tọa đàm chỉ toàn ý kiến ủng hộ, nhất trí. Điều đó phản ánh không thực chất, khách quan về dự thảo luật.

Ở công đoạn soạn thảo luật, xây dựng chi tiết các chương, điều, những người được giao trách nhiệm soạn thảo dễ bị chi phối bởi lợi ích cục bộ nên thường đưa ra những quy định có lợi cho bộ, ngành mình, thậm chí có lợi cho một nhóm lợi ích thực thi chính sách sau này. Chẳng hạn, có không ít dự thảo luật đưa ra quy định về lập quỹ tài chính. Dưới vỏ bọc “xã hội hóa”, tưởng như những loại quỹ vận động tài chính từ các tổ chức, cá nhân là hợp pháp, nhưng khi đi vào cuộc sống, những quỹ này có thể được sử dụng không đúng mục đích, thậm chí bị “nhào nặn” biến tướng để mang lại lợi ích cho một nhóm người.

Ở công đoạn thẩm định, thẩm tra dự thảo luật, nếu người có trách nhiệm thẩm định, thẩm tra dễ dãi, nể nang và thiếu trình độ, kỹ năng, năng lực thẩm định, thẩm tra thì để tồn tại những kẽ hở trong luật. Đấy là chưa kể có hiện tượng “đi cửa sau” mà nói thẳng là có sự thông đồng giữa người soạn thảo dự luật và người thẩm định, thẩm tra dự thảo luật. Thậm chí, vì đồng tiền chi phối, mua chuộc, có người được giao trọng trách thẩm tra nhưng sẵn sàng chà đạp lên lợi ích chung của nhân dân, của đất nước để “bảo kê” chính sách cho cơ quan soạn thảo.

PV: Như đồng chí vừa nói, “lợi ích nhóm”, lợi ích cục bộ trong công tác xây dựng pháp luật có thể được ngăn chặn ngay từ khâu thẩm định, thẩm tra dự thảo luật. Nhưng thời gian qua, vì sao có một số luật có yếu tố “lợi ích nhóm”, lợi ích cục bộ trong đó mà vẫn được thông qua?

Thiếu tướng, TS Nguyễn Mai Bộ: Những người manh nha xây dựng nên “lợi ích nhóm”, lợi ích cục bộ vốn là những con người phá vỡ nguyên tắc; họ “ăn cơm nhà nước, gánh vác việc công” nhưng lại không thật sự vì dân, vì nước, mà vì những lợi ích cá nhân hẹp hòi. Có những người còn bị hướng lái bởi sự vận động hành lang tinh vi, thiếu lành mạnh của cơ quan soạn thảo chính sách, mà thực chất là họ đã bị đồng tiền “xuyên thủng” sự liêm chính của mình. Bên cạnh đó, một số đại biểu Quốc hội đã nhầm vai giữa hành pháp và lập pháp, “vừa đá bóng vừa thổi còi” nên không đủ dũng khí phản biện nghiêm túc và không thể hiện bản lĩnh để bảo vệ chính kiến, chân lý xác đáng của mình.

Thế nên, không ngẫu nhiên mà trong buổi gặp mặt các đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách, cán bộ, công chức khối các cơ quan pháp luật, tư pháp, nghiên cứu lập pháp tại Quốc hội, nhân Ngày Pháp luật Việt Nam (9-11-2021), Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ lưu ý: “Đã là cán bộ làm công tác pháp luật, hơn ai hết phải là những người làm rất chuyên nghiệp và cũng phải rất bản lĩnh. Tôi rất mong muốn là trong mọi hoàn cảnh, mọi điều kiện, dù làm công việc gì cũng phải quán triệt các cơ sở chính trị rất quan trọng của Nhà nước ta trong công tác xây dựng pháp luật và bảo vệ pháp luật. Hơn ai hết, cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật phải có bản lĩnh dám nói thẳng. Luật pháp chỉ là đúng, sai chứ không có khái niệm ở giữa”.

Tham nhũng chính sách tạo thêm "điểm nghẽn" gây cản trở sự phát triển của đất nước

PV: Việc cài cắm “lợi ích nhóm” trong xây dựng pháp luật sẽ gây ra những hệ lụy gì cho xã hội, thưa đồng chí?

Thiếu tướng, TS Nguyễn Mai Bộ: Tôi nhớ một lần trong nghị trường, khi được chất vấn về vấn đề cục bộ lợi ích trong xây dựng chính sách, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long từng cho rằng, quy trình làm luật của chúng ta, cơ quan chủ trì soạn thảo bằng cách này, cách khác vẫn có cái nhìn thiên vị, có phần dành thuận lợi hơn cho bộ, ngành mình. Bên cạnh đó, tình trạng cục bộ còn xảy ra khi xây dựng văn bản pháp luật quy định về chế độ, chính sách có lợi cho bộ, ngành mình, mà không quan tâm đến lợi ích chung của toàn xã hội.

Theo tôi, hệ quả của vấn đề này là hết sức nguy hại. Khi những chính sách cài cắm “lợi ích nhóm” ra đời sẽ chồng chéo với văn bản pháp luật trước đó, từ đó dẫn tới xung đột trong thực hiện pháp luật. Mặt khác, các luật ra đời có tuổi thọ ngắn, khó khả thi, từ đó buộc phải sửa đổi luật nhiều lần. Nếu bộ, ngành nào cũng chỉ vì lợi ích của bộ, ngành mình mà không nghĩ đến lợi ích chung của xã hội, của nhân dân, của đất nước thì không bao giờ chúng ta xây dựng được hệ thống pháp luật thống nhất, chặt chẽ, ổn định và có tính khả thi cao.

“Lợi ích nhóm”, lợi ích cục bộ cài cắm trong các văn bản chính sách, văn bản pháp luật là một dạng tham nhũng chính sách. Khi tham nhũng chính sách không bị phát hiện, ngăn chặn sẽ cản trở sự phát triển lành mạnh của xã hội; nguyên tắc công bằng, bình đẳng trước pháp luật bị xâm hại; nguồn lực đất nước bị phân tán, năng lực cạnh tranh quốc gia suy giảm. Một chính sách phát triển ngành có sự lồng ghép lợi ích cục bộ mà được thông qua có thể làm lợi rất lớn cho một số người, cho một bộ phận người trong ngành đó, nhưng cũng có thể làm cạn kiệt các nguồn lực của đất nước và xã hội. Một quyền năng không chính đáng được cài cắm vào trong luật có thể hợp pháp hóa sự nhũng nhiễu của một số người, nhưng cũng có thể làm cho đời sống của người dân, hoạt động của doanh nghiệp thêm khó khăn.

PV: Nếu phát hiện có những văn bản pháp luật bị ảnh hưởng chi phối bởi “nhóm lợi ích”, theo đồng chí, cần tính đến xem xét trách nhiệm liên quan của các tổ chức, cá nhân nào?

Thiếu tướng, TS Nguyễn Mai Bộ: Gắn với 3 công đoạn dự thảo, thẩm định, thẩm tra văn bản pháp luật, nếu để lợi ích chi phối thì có 3 nhóm chủ thể, đó là nhóm chủ thể xây dựng dự thảo luật; nhóm thứ hai là nhóm thẩm định của Bộ Tư pháp và các cơ quan liên quan; nhóm thứ ba là hoạt động thẩm tra của Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội. Chúng ta cần coi trọng xử lý ở cả 3 công đoạn này mới ra được một văn bản có hiệu lực cao và không mâu thuẫn với những văn bản pháp luật trước đó. Nhưng theo tôi, quan trọng nhất là phải đề cao sự liêm chính trong công tác xây dựng pháp luật.

PV: Vì sao phải coi trọng và thực hiện sự liêm chính trong xây dựng pháp luật?

Thiếu tướng, TS Nguyễn Mai Bộ: Vì sự liêm chính được ví như tấm áo giáp có thể chở che, bảo vệ uy tín, danh dự, phẩm giá của những người gắn bó với trọng trách xây dựng pháp luật; đồng thời góp phần bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân và đất nước.

Pháp luật là công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội, cho nên rất cần thiết phải có sự liêm chính trong công tác xây dựng pháp luật. Bởi, có liêm chính sẽ xây dựng được những văn bản khách quan, toàn diện, ít chồng chéo với các văn bản pháp luật ban hành trước đó. Đặc biệt, có liêm chính sẽ không lồng ghép lợi ích cục bộ của bộ, ngành khi soạn thảo, xây dựng dự án luật.

Tôi cho rằng, nếu thiếu liêm chính trong quá trình soạn thảo, thẩm tra dự án luật thì sẽ tạo ra những dự án luật có ít nhất 3 khuyết tật. Khuyết tật thứ nhất là mâu thuẫn, chồng chéo với văn bản pháp luật mà Quốc hội các khóa trước đã dày công ban hành. Khuyết tật thứ hai là công cụ để ban soạn thảo hoặc là hiện thực hóa lợi ích của bộ, ngành mình, trong đó có lợi ích xung đột với lợi ích của nhân dân, hoặc là công cụ để chiếm quyền của bộ, ngành khác và trái với quy định của Luật Tổ chức Chính phủ cũng như Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Khuyết tật thứ ba là vòng đời của các văn bản luật đó rất ngắn và kéo theo Chính phủ, Quốc hội phải tốn kém thời gian, kinh phí để ban hành luật khác thay thế.

Do vậy, tôi đề nghị các cơ quan được giao soạn thảo dự án luật rất cần khởi động lại sự liêm chính trong khâu xây dựng luật; các cơ quan thẩm định, thẩm tra, các đại biểu Quốc hội cũng phải luôn liêm chính trong thẩm tra, phát biểu về dự án luật.

PV: Trân trọng cảm ơn đồng chí!

 

“Phải có cơ chế kiểm soát chặt chẽ việc xây dựng chính sách, pháp luật về quản lý kinh tế-xã hội để hạn chế sự tác động tiêu cực của “nhóm lợi ích”, “sân sau”, “tư duy nhiệm kỳ”; ngăn chặn nguy cơ nảy sinh tham nhũng, tiêu cực ngay từ khi xây dựng chính sách, pháp luật”.

 (Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, do Bộ Chính trị tổ chức ngày 30-6-2022)

Bài 2: Kiểm soát quyền lực chặt chẽ để kiềm chế “lợi ích nhóm”
Để phòng, chống “lợi ích nhóm”, tham nhũng chính sách trong hoạt động xây dựng chính sách, pháp luật, việc kiểm soát quyền lực được coi là “bảo bối”, là gốc của vấn đề xây dựng hoàn thiện thể chế-một trong 3 khâu đột phá chiến lược trong mục tiêu phát triển đất nước mà Đại hội XIII của Đảng đã xác định. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, phóng viên Báo Quân đội nhân dân có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Mạnh Cường, Phó chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội khóa XV.

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội khóa XV Nguyễn Mạnh Cường
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội khóa XV Nguyễn Mạnh Cường



Chưa bịt hết các kẽ hở trong hoạt động xây dựng chính sách, pháp luật
Phóng viên (PV): Với tư cách là một trong những thành viên Ban soạn thảo của Quốc hội xây dựng dự thảo “Quy định của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực, phòng, chống “lợi ích nhóm”, tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật”, theo ông, “lợi ích nhóm” trong hoạt động xây dựng chính sách, pháp luật ở nước ta có gì đáng quan tâm?
Ông Nguyễn Mạnh Cường: Đấu tranh phòng, chống các biểu hiện tham nhũng, tiêu cực dưới hình thức “nhóm lợi ích” là vấn đề đã được đề cập trong nhiều văn kiện của Đảng, được dư luận xã hội rất quan tâm thời gian gần đây.
“Nhóm lợi ích” có thể tác động lên quá trình hoạch định chính sách (ở Trung ương hoặc địa phương), đặc biệt là quá trình thực thi chính sách để mang lại “lợi ích nhóm” tiêu cực, không chính đáng, gây thất thoát, lãng phí lớn đối với tài sản nhà nước. Trong hoạch định chính sách, để thu vén lợi ích không chính đáng cho "nhóm”, các "nhóm lợi ích" có thể tác động tới việc ban hành các chính sách cụ thể, như chính sách về đầu tư, thuế, tài chính, ngân hàng; về thủ tục hành chính; về tổ chức bộ máy... Những chính sách này tuy mang lại lợi ích cho một nhóm nhỏ người nhưng lại gây thiệt hại to lớn cho lợi ích chung của quốc gia. Hoặc một nhóm người được hưởng lợi từ các thủ tục hành chính phức tạp, nhưng đa số nhân dân thì bị gây phiền hà, tốn kém.
Đối với cơ quan lập pháp, “nhóm lợi ích” có thể tác động tới quá trình hoạch định chính sách và giám sát việc thực thi chính sách. Trên thực tế, do quy trình xây dựng pháp luật được quy định rất chặt chẽ, đồng thời, thẩm quyền lập pháp chỉ tập trung vào ban hành những chính sách chung cho toàn đất nước (ban hành luật, nghị quyết và không có thẩm quyền thực thi pháp luật) nên việc tác động của “nhóm lợi ích” vào hoạt động lập pháp ít phổ biến hơn.
Tuy nhiên, khả năng tác động vào hoạt động lập pháp hoàn toàn có thể xảy ra thông qua việc vận động không chính đáng vào việc soạn thảo, tiếp thu, chỉnh lý và biểu quyết thông qua chính sách trong các dự án luật, nghị quyết, việc vận động phát biểu, chất vấn, vận động bỏ phiếu, bầu cử... Do đó, việc đề cao cảnh giác, thực hiện đầy đủ các biện pháp nhằm kiểm soát, ngăn chặn biểu hiện lợi ích nhóm trong xây dựng, hoạch định chính sách, pháp luật là rất cần thiết trong tình hình hiện nay.
PV: Ông nhìn nhận như thế nào về việc thực trạng thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống “lợi ích nhóm” trong hoạt động xây dựng chính sách, pháp luật ở nước ta thời gian qua?
Ông Nguyễn Mạnh Cường: Thực hiện các quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Quốc hội đã thông qua số lượng lớn các luật với chất lượng ngày càng được nâng cao. Quy trình xây dựng pháp luật được thực hiện nghiêm túc; các dự thảo luật, pháp lệnh được tổ chức lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức có liên quan và đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản với nhiều hình thức phù hợp. Chất lượng của các báo cáo thẩm định, thẩm tra ngày càng được nâng cao, bảo đảm tính độc lập, khách quan, có tính phản biện cao, nêu được chính kiến của cơ quan thẩm định, thẩm tra đối với dự thảo văn bản. Việc thảo luận của đại biểu Quốc hội và việc tiếp thu, chỉnh lý các dự thảo luật được tiến hành nghiêm túc. Quy trình xin ý kiến Bộ Chính trị đối với các nội dung lớn, quan trọng của dự án luật được tuân thủ chặt chẽ, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng pháp luật. Có thể nói, việc thực hiện nghiêm túc các quy định nêu trên về cơ bản đã bảo đảm sự kiểm soát đối với hoạt động lập pháp, bảo đảm văn bản luật được ban hành công khai, minh bạch, có chất lượng, phản ánh đúng chủ trương, đường lối của Đảng, ý chí của nhân dân, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội.
Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực hiện, vẫn còn một số hạn chế, dẫn đến hiệu quả kiểm soát quyền lực để phòng, chống “lợi ích nhóm”, tham nhũng từ hoạch định chính sách chưa cao. Việc công khai, minh bạch, dân chủ trong quy trình xây dựng pháp luật tuy được coi trọng hơn nhưng trong quá trình soạn thảo luật, việc lấy ý kiến đối với dự thảo và kể cả đối với đề nghị xây dựng luật, nhìn chung có nơi, có lúc còn mang tính hình thức; chất lượng ý kiến đóng góp chưa cao, nhất là đối với những vấn đề mới, phức tạp, còn nhiều tranh luận.
Bên cạnh đó, cơ quan trình dự án chưa dành thời gian thỏa đáng để xem xét, thông qua dự thảo luật trước khi trình Quốc hội (có trường hợp chỉ xin ý kiến thành viên bằng văn bản nên việc tranh luận, thảo luận bị hạn chế). Một số tài liệu còn hình thức, nhất là báo cáo đánh giá tác động của chính sách, báo cáo rà soát thủ tục hành chính, dự thảo văn bản quy định chi tiết... Những vấn đề nêu trên làm cho việc kiểm soát chính sách bị buông lỏng, không chặt chẽ.
PV: Công tác thẩm định, thẩm tra là hoạt động “gác cổng” pháp lý ngày càng chặt chẽ hơn, nhưng vì sao vẫn có những văn bản luật ra đời chưa phát huy hiệu lực, hiệu quả. Liệu có sự lồng ghép “lợi ích nhóm”, lợi ích cục bộ trong công đoạn này không, thưa ông?
Ông Nguyễn Mạnh Cường: Trên phương diện của Ủy ban Tư pháp, chúng tôi cho rằng, chất lượng các báo cáo thẩm định, thẩm tra chưa đồng đều, nội dung của một số báo cáo dự án luật còn sơ sài, xuôi chiều, tính phản biện chưa cao; chưa dựa trên lập luận mang tính khoa học nên còn thiếu tính thuyết phục. Có trường hợp, báo cáo thẩm tra mới chỉ chú ý xem xét tới những vấn đề lớn mà cơ quan trình dự án nêu trong tờ trình. Tuy nhiên, không loại trừ trường hợp có những vấn đề thực sự lớn, những nội dung có biểu hiện "lợi ích nhóm", lợi ích cục bộ lại không được nêu trong tờ trình. Nếu báo cáo thẩm tra không chỉ ra được vấn đề đó thì sẽ chưa làm tròn nhiệm vụ tham mưu cho Quốc hội tập trung thảo luận những vấn đề quan trọng của dự án và loại bỏ “lợi ích nhóm”, lợi ích cục bộ trong dự án.
Ngoài ra, một số dự án luật có chất lượng chưa tốt được trình ra Quốc hội và sau khi Quốc hội cho ý kiến thì cần phải sửa lại rất nhiều. Tuy nhiên, đến lúc này thì dự án đã “nằm ở sân Quốc hội”, cơ quan soạn thảo gần như chỉ có trách nhiệm tham gia; việc chỉnh lý, soạn thảo lại dự án không phải tuân theo các quy trình của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (đánh giá tác động, lấy ý kiến của các đối tượng chịu sự tác động...), dẫn đến sự kiểm soát đối với nội dung được soạn thảo, chỉnh lý sẽ thiếu chặt chẽ, từ đó hiệu lực của luật bị hạn chế.
Mặt khác, trong thành phần đại biểu Quốc hội, vẫn có quá nhiều đại biểu kiêm nhiệm là lãnh đạo bộ máy cơ quan hành pháp, tư pháp. Có một số trường hợp cán bộ thuộc các bộ, ngành được biệt phái sang làm lãnh đạo, thường trực các ủy ban của Quốc hội. Điều này đã ảnh hưởng tới tính độc lập của các ủy ban, có thể dẫn đến tình trạng nể nang, bị ảnh hưởng bởi lợi ích cục bộ ngành khi bày tỏ quan điểm, phát biểu chính kiến của đại biểu. Đây là những hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ đến kiểm soát quyền lực trong hoạt động xây dựng chính sách, pháp luật ở nước ta.
PV: Còn tồn tại những khe hở trong xây dựng chính sách, pháp luật có lồng ghép “nhóm lợi ích”, phải chăng trong quy trình lập pháp chúng ta chưa phát huy đầy đủ vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận?
Ông Nguyễn Mạnh Cường: Tôi cho rằng, sự tham gia hoạt động xây dựng chính sách, pháp luật trong những năm gần đây đã trở thành một trong những nhiệm vụ chủ yếu của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên. MTTQ Việt Nam thực hiện quyền giám sát trong việc xây dựng chính sách, pháp luật được thực hiện thông qua trực tiếp tham gia góp ý trong quá trình soạn thảo; thông qua tham gia các ban soạn thảo, tổ biên tập; thông qua hoạt động phản biện xã hội, góp ý xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, qua đó phát hiện những điểm chưa phù hợp để kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, điều chỉnh.
Tuy nhiên, có lúc, có nơi, MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên tham gia xây dựng và giám sát hoạt động lập pháp còn chưa đạt hiệu quả như mong muốn.
Phải công khai, dân chủ, minh bạch trong các quy trình xây dựng pháp luật
PV: Trước thực trạng nêu trên, theo ông, việc kiểm soát quyền lực để phòng, chống “lợi ích nhóm”, tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động xây dựng chính sách, pháp luật có trở nên hệ trọng, cấp thiết không?
Ông Nguyễn Mạnh Cường: Kiểm soát quyền lực để phòng, chống “lợi ích nhóm”, “tham nhũng chính sách” trong hoạt động xây dựng chính sách, pháp luật có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng, trọng tâm nằm ở khâu xây dựng, hoàn thiện thể chế-là một trong 3 khâu đột phá chiến lược trong mục tiêu phát triển đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được Đại hội XIII xác định.
Đây là việc làm rất hệ trọng, rất cấp thiết nhằm khơi thông những điểm nghẽn, tháo gỡ những khó khăn, ách tắc trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội. Làm tốt công việc này còn góp phần đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, ngăn ngừa sự tha hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Có thể nói rằng, công cuộc đấu tranh phòng, chống “lợi ích nhóm”, tham nhũng chính sách là thiết thực góp phần bảo vệ uy tín, năng lực lãnh đạo của Đảng, bảo vệ sự uy nghiêm của pháp luật Nhà nước và bảo vệ tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng.
 PV: Để việc xây dựng chính sách, pháp luật được khách quan, có chất lượng, không bị cài cắm bởi "lợi ích nhóm", lợi ích cục bộ, theo ông, thời gian tới, chúng ta cần chú trọng những vấn đề gì?
Ông Nguyễn Mạnh Cường: Để nhận diện lợi ích nhóm trong xây dựng chính sách, pháp luật thì đối với mỗi chính sách, chúng ta cần làm rõ: Chính sách đó làm lợi cho ai? Có tiêu cực trong xây dựng, thông qua chính sách không? Cụ thể, cần trả lời các câu hỏi: Chính sách có được xây dựng minh bạch, công khai, theo đúng quy trình không, có biểu hiện mờ ám, tiêu cực không? Chính sách đó có vì lợi ích chung của nhân dân, của quốc gia, dân tộc không hay lợi ích của một nhóm người? Nếu chỉ làm lợi cho một số người thì lợi ích đó có chính đáng không? Nhiều nội dung nêu trên sẽ được làm sáng tỏ thông qua báo cáo đánh giá tác động của chính sách.
Khi xây dựng chính sách, pháp luật phải thể hiện được ý chí, nguyện vọng, lợi ích chung của nhân dân và lợi ích quốc gia, dân tộc. Do đó, điều quan trọng hàng đầu là phải bảo đảm công khai, dân chủ, minh bạch trong các bước thực hiện quy trình, qua đó tạo điều kiện cho các cơ quan nhà nước, mọi người dân đều có thể giám sát được hoạt động này.           
Cùng với đó, phải quy định rõ ràng về thẩm quyền ban hành văn bản, vấn đề ủy quyền lập pháp, qua đó loại trừ việc lạm quyền, tùy tiện trong ban hành văn bản. Đồng thời, quy định trách nhiệm tham gia của các cơ quan trong quá trình soạn thảo; quy định chặt chẽ về việc lấy ý kiến của các bộ, ngành, địa phương, ý kiến của các đối tượng chịu sự tác động của dự án. Việc huy động sự tham gia và lấy ý kiến rộng rãi về dự án luật như vậy sẽ bảo đảm cho các chính sách được xây dựng trong dự án luật khách quan, toàn diện, có chất lượng, không có lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ. Người góp ý, phản biện chính sách phải thực tâm; còn người có trách nhiệm và cơ quan thẩm định chính sách cũng phải tiếp thu thực chất. Chỉ có như vậy mới thật sự phát huy được tinh hoa trí tuệ của các giai cấp, tầng lớp nhân dân trong tham gia xây dựng chính sách, pháp luật.
Ngoài ra, cần chú trọng thực hiện hiệu quả việc đánh giá tác động chính sách; đánh giá thủ tục hành chính nhằm bảo đảm cho các chính sách minh bạch, rõ ràng, phù hợp thực tiễn, có tính khả thi, thủ tục hành chính thuận tiện, đơn giản... nhằm loại trừ "lợi ích nhóm", tham nhũng, tiêu cực trong thực thi chính sách.
Đặc biệt, cần quy định nội dung thẩm định, thẩm tra nhằm bảo đảm kiểm soát được chính sách trong dự án luật. Quy định chặt chẽ thủ tục thẩm tra để bảo đảm tất cả ý kiến thành viên ủy ban thẩm tra phải được thể hiện trong báo cáo thẩm tra; quy định sự tham gia thẩm tra của các ủy ban đối với những vấn đề có liên quan. Những quy định này nhằm bảo đảm cho dự án luật được xem xét, kiểm tra, đánh giá đa chiều, qua đó loại bỏ việc cài cắm "lợi ích nhóm", lợi ích cục bộ.
PV: Trân trọng cảm ơn ông!


Bài 3: Lọc bỏ tận gốc “lợi ích nhóm” trong các văn bản quy phạm pháp luật
Trao đổi với phóng viên Báo Quân đội nhân dân, Tiến sĩ (TS) Luật học Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (Bộ Tư pháp) nhấn mạnh: Qua công tác kiểm tra, xử lý và rà soát văn bản quy phạm pháp luật (QPPL), chúng tôi cho rằng rất cần nghiên cứu, nhận diện đầy đủ, khách quan các biểu hiện có thể làm phát sinh “lợi ích nhóm”, lợi ích cục bộ trong xây dựng chính sách, pháp luật, từ đó có giải pháp phòng ngừa, loại bỏ những biểu hiện tiêu cực trong quá trình xây dựng pháp luật nhằm hướng đến một hệ thống pháp luật đồng bộ, ổn định, thống nhất, minh bạch và khả thi.

Tiến sĩ Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (Bộ Tư pháp).
Tiến sĩ Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (Bộ Tư pháp).



Mỗi năm có cả trăm văn bản chứa đựng nội dung trái pháp luật
Phóng viên (PV): Theo ông, vì sao trong Kết luận số 19-KL/TW của Bộ Chính trị đưa ra yêu cầu “chống tiêu cực ngay trong công tác xây dựng pháp luật, không bị chi phối, tác động bởi các hành vi không lành mạnh của bất cứ tổ chức, cá nhân nào; không để xảy ra tình trạng lồng ghép “lợi ích nhóm”, lợi ích cục bộ của cơ quan quản lý nhà nước trong văn bản pháp luật”?
TS Hồ Quang Huy: Về bản chất, chống tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật, không bị chi phối, tác động bởi các hành vi không lành mạnh của bất cứ tổ chức, cá nhân nào; không để xảy ra tình trạng lồng ghép “lợi ích nhóm”, lợi ích cục bộ của cơ quan quản lý nhà nước trong văn bản pháp luật chính là chủ trương đúng đắn của Đảng, là nội dung cụ thể của kiểm soát quyền lực trong công tác xây dựng pháp luật.
Kiểm soát quyền lực là một trong những nguyên tắc nền tảng của tổ chức quyền lực Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam. Kiểm soát quyền lực nhà nước trong công tác xây dựng văn bản nhằm bảo đảm công cụ quản lý nhà nước này được sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả, phục vụ lợi ích của nhân dân. Tôi cho rằng, việc xem xét, nhận diện cụ thể những biểu hiện tiêu cực, “lợi ích nhóm”, tác động không lành mạnh trong công tác xây dựng pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng để từ đó xác định các biện pháp phòng, chống phù hợp, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, công chức, ngăn chặn các vi phạm pháp luật (về hành chính, hình sự...), giúp kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ thành quả xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
PV: Với vai trò là cơ quan tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa, hợp nhất văn bản QPPL, ông nhận định như thế nào về thực trạng xây dựng các văn bản QPPL thời gian qua?
TS Hồ Quang Huy: Theo cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp luật, trong giai đoạn 2016-2021, Quốc hội đã ban hành 120 văn bản QPPL (gồm 80 luật, bộ luật và 40 nghị quyết), Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 35 văn bản QPPL (gồm 3 pháp lệnh và 32 nghị quyết); Chính phủ ban hành 875 nghị định; Thủ tướng Chính phủ ban hành 239 quyết định; bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành 3.622 thông tư, thông tư liên tịch. Ở địa phương, chính quyền cấp tỉnh đã ban hành 24.542 văn bản QPPL; chính quyền cấp huyện đã ban hành 15.881 văn bản QPPL; chính quyền cấp xã đã ban hành 74.841 văn bản QPPL.
Nhìn tổng thể, nội dung những văn bản đã bám sát các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH), kịp thời thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn, tạo hành lang pháp lý toàn diện, đầy đủ để thúc đẩy phát triển mọi mặt đời sống KT-XH, phục vụ công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Tuy nhiên, phải thẳng thắn thừa nhận, hệ thống pháp luật hiện vẫn tồn tại những khiếm khuyết, hạn chế cần khắc phục vì qua kiểm tra, rà soát văn bản QPPL, chúng tôi phát hiện vẫn còn những văn bản do bộ, ngành ở Trung ương và địa phương ban hành trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo, bất cập hoặc không còn phù hợp với tình hình phát triển KT-XH. 
PV: Thưa ông, trong 5 năm gần đây (2017-2021), Cục Kiểm tra văn bản QPPL đã tham mưu cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp kết luận, kiến nghị xử lý bao nhiêu văn bản trái pháp luật?
TS Hồ Quang Huy: Trong 5 năm qua, Cục Kiểm tra văn bản QPPL đã tổ chức kiểm tra được 25.670 văn bản (trong đó có 2.882 văn bản cấp bộ và 22.788 văn bản do chính quyền địa phương cấp tỉnh ban hành). Kết quả thống kê cho thấy, qua kiểm tra đã phát hiện 554 văn bản (chiếm khoảng 2,15%) trong tổng số văn bản nêu trên có dấu hiệu trái pháp luật về nội dung, thẩm quyền. Trong số đó, có 80 văn bản cấp bộ ban hành và 474 văn bản do chính quyền địa phương cấp tỉnh ban hành.
PV: Trong các văn bản có nội dung trái pháp luật, theo ông, có “nhóm lợi ích” lồng ghép, cài cắm vào các văn bản này không?
TS Hồ Quang Huy: Trên cơ sở nội hàm của khái niệm “lợi ích nhóm”, lợi ích cục bộ, tiêu cực, tác động không lành mạnh của một số tổ chức, cá nhân, cũng như đối chiếu với kết quả chung về kiểm tra, rà soát văn bản QPPL, bước đầu chúng tôi nhận diện có một số biểu hiện cụ thể sau đây có thể bị lợi dụng để thông qua đó cố ý cài cắm “lợi ích nhóm”, lợi ích cục bộ trong văn bản pháp luật.
Các biểu hiện đó là: 1) Ban hành văn bản hành chính nhưng có chứa QPPL, đồng thời, QPPL này trái pháp luật; 2) Ban hành văn bản không đúng thẩm quyền (đặt ra thủ tục hành chính; đặt ra điều kiện đầu tư kinh doanh hoặc ngành nghề kinh doanh có điều kiện; hạn chế quyền con người, quyền công dân); 3) Ban hành văn bản có nội dung trái với Hiến pháp, trái với văn bản QPPL có hiệu lực pháp lý cao hơn; 4) Ban hành văn bản quy định thời điểm có hiệu lực trái với quy định của Luật Ban hành văn bản QPPL; 5) Văn bản QPPL được ban hành vi phạm nghiêm trọng trình tự, thủ tục ban hành văn bản; 6) Không kiểm tra, rà soát hoặc kiểm tra, rà soát không kịp thời, nghiêm túc văn bản thuộc thẩm quyền kiểm tra, rà soát; 7) Không xử lý hoặc chậm xử lý văn bản trái pháp luật do mình ban hành.
PV: Sự tồn tại của các văn bản có nội dung trái pháp luật được Cục Kiểm tra văn bản QPPL phát hiện thời gian qua đã nói lên điều gì, thưa ông?
TS Hồ Quang Huy: Thực tế cho thấy, ban hành văn bản có nội dung trái pháp luật không chỉ làm ảnh hưởng đến việc thực hiện mục tiêu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch và tác động tiêu cực đến hoạt động quản lý nhà nước mà còn gây tốn kém thời gian, công sức, nguồn kinh phí, ngân sách của Nhà nước và gây thiệt hại cho người dân, doanh nghiệp, từ đó có thể làm gia tăng bức xúc trong dư luận xã hội.
Việc còn tồn tại những văn bản trái pháp luật cho thấy: Việc kiểm soát chất lượng văn bản trước và sau khi ban hành chưa đáp ứng tốt nhất yêu cầu quản lý nhà nước; việc thực hiện quy định pháp luật, kỷ luật, kỷ cương trong ban hành văn bản chưa nghiêm; việc xem xét, xử lý trách nhiệm đối với người, cơ quan ban hành văn bản trái pháp luật, xử lý văn bản trái pháp luật chưa kịp thời; năng lực, trình độ của người làm công tác xây dựng, kiểm tra, rà soát văn bản ở một số cơ quan, tổ chức, địa phương còn hạn chế.
Xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm, cài cắm "lợi ích nhóm"
PV: Thưa ông, việc xử lý trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân liên quan đến việc ban hành văn bản có nội dung trái pháp luật như thế nào?
TS Hồ Quang Huy: Sau khi Cục Kiểm tra văn bản QPPL phát hiện và kiến nghị xử lý, về cơ bản, các cơ quan quản lý nhà nước và chính quyền địa phương đã ban hành văn bản trái pháp luật có tinh thần nghiêm túc, cầu thị trong tiếp nhận và xử lý nội dung trái pháp luật của văn bản.
Tuy nhiên, việc xử lý văn bản trái pháp luật trong một số trường hợp còn chậm. Bên cạnh đó, việc xem xét, xử lý trách nhiệm đối với cơ quan, cá nhân liên quan đến việc ban hành văn bản trái pháp luật nhìn chung chỉ mới ở mức độ rút kinh nghiệm, phê bình, chưa bảo đảm giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương trong công tác xây dựng, ban hành văn bản QPPL.
Chúng tôi cho rằng, việc ban hành văn bản có nội dung trái pháp luật là một loại vi phạm của các cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản trong quá trình thi hành nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Vấn đề quan trọng là phải xử lý nghiêm nội dung trái pháp luật, đồng thời xác định rõ trách nhiệm của người ban hành, tham mưu ban hành văn bản trên cơ sở đánh giá nội dung, tính chất, mức độ trái pháp luật của văn bản, hậu quả nội dung trái pháp luật gây ra đối với xã hội và tính chất, mức độ lỗi của từng chủ thể.
Tuy nhiên, điều chúng tôi băn khoăn là thể chế hiện hành vẫn chưa có khung pháp lý đầy đủ, cụ thể điều chỉnh toàn diện các hành vi, quy trình, căn cứ đánh giá, xem xét, kết luận và xử lý trách nhiệm đối với người đã cố ý ban hành văn bản trái pháp luật để lồng ghép "lợi ích nhóm", tham nhũng, tiêu cực. 
PV: Để khắc phục tình trạng bất cập nêu trên, đâu là vấn đề mấu chốt cần quan tâm?
TS Hồ Quang Huy: Cần sớm hoàn thiện các quy định cụ thể về xem xét, xử lý trách nhiệm đối với người, cơ quan ban hành văn bản trái pháp luật, không kịp thời xử lý văn bản trái pháp luật và khắc phục hậu quả do áp dụng văn bản trái pháp luật gây ra.
Điều này đã được Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh trong buổi làm việc với Bộ Tư pháp ngày 25-5-2021, đó là đi đôi với thực hiện nghiêm kỷ luật, kỷ cương về công tác xây dựng pháp luật, tăng cường trách nhiệm giải trình của cơ quan chủ trì soạn thảo, đặc biệt là đối với ý kiến thẩm định của cơ quan tư pháp; phải kịp thời xử lý văn bản trái pháp luật, xử lý trách nhiệm đối với tổ chức, cá nhân liên quan đến việc ban hành văn bản trái pháp luật.
Xử lý trách nhiệm đối với người, cơ quan ban hành văn bản trái pháp luật, không kịp thời xử lý văn bản trái pháp luật có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như hiệu lực, hiệu quả của quy định về kiểm tra văn bản QPPL. Nhưng do quy định pháp luật về vấn đề này chưa chi tiết, chưa đầy đủ nên việc thực hiện các quy định xử lý trách nhiệm cá nhân, tổ chức trong thực tiễn còn gặp nhiều khó khăn, chưa mang lại hiệu quả như mong muốn.
Mặt khác, cần nghiên cứu, đề xuất cơ chế xử lý đặc thù đối với chủ thể đã ban hành văn bản có biểu hiện lồng ghép “lợi ích nhóm”, tiêu cực (nếu đủ căn cứ chứng minh). Vấn đề khắc phục hậu quả do áp dụng, thực hiện văn bản trái pháp luật là vấn đề quan trọng, được nhiều cơ quan, tổ chức, công dân quan tâm. Vì vậy, trong thời gian tới cần nghiên cứu, quy định cụ thể cơ chế khắc phục hậu quả do ban hành và thi hành văn bản trái pháp luật gây ra.
PV: Trên phương diện quản lý nhà nước, theo ông, phải có giải pháp căn cơ nào để phòng ngừa, loại bỏ những biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, “lợi ích nhóm” trong xây dựng, ban hành các văn bản QPPL?
TS Hồ Quang Huy: Tôi nghĩ, giải pháp căn cơ hiện nay là phải nhanh chóng hoàn thiện và sớm ban hành quy định của Đảng về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích nhóm” trong công tác xây dựng chính sách, pháp luật. Như chúng ta đã biết, vấn đề khó khăn, nhạy cảm như chạy chức, chạy quyền đã được Bộ Chính trị nhận diện các biểu hiện cụ thể tại Quy định số 205-QĐ/TW ngày 23-9-2019 về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền. Sau khi Quy định số 205-QĐ/TW được ban hành, cá nhân có sai phạm đã bị xử lý kịp thời, nghiêm minh, nhận được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân.
Từ kinh nghiệm đó, các cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu, tham mưu để Bộ Chính trị xem xét, ban hành văn bản nhằm “lượng hóa” các biểu hiện cụ thể của tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích nhóm” trong văn bản QPPL; động cơ, mục đích khi ban hành văn bản QPPL có lồng ghép “lợi ích nhóm”, tham nhũng, tiêu cực; quy trình, cách thức xác định và xử lý cán bộ, đảng viên tham mưu, ban hành văn bản QPPL có nội dung trái pháp luật, lồng ghép “lợi ích nhóm”, tham nhũng, tiêu cực.
Trên cơ sở đó, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ nghiên cứu, thể chế hóa tiêu chí, nội dung biểu hiện lồng ghép “lợi ích nhóm”, tham nhũng, tiêu cực trong văn bản QPPL; căn cứ xác định lỗi của chủ thể ban hành văn bản có lồng ghép “lợi ích nhóm”, tham nhũng, tiêu cực làm cơ sở để thực hiện kiểm tra, xử lý văn bản và người ban hành văn bản khi có hành vi vi phạm.
PV: Trân trọng cảm ơn ông!


Bài 4: Tham khảo kinh nghiệm quốc tế để phòng ngừa tham nhũng chính sách (Tiếp theo và hết)

Với mong muốn có tiếng nói đa chiều, khách quan và phát huy trí tuệ của các chuyên gia, nhà khoa học trong phân tích, lý giải về thực trạng tiêu cực, tham nhũng, “lợi ích nhóm” đối với công tác xây dựng chính sách, pháp luật, phóng viên Báo Quân đội nhân dân có cuộc trao đổi với PGS, TS Vũ Công Giao, Chủ nhiệm Bộ môn Luật Hiến pháp và Luật Hành chính, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

PGS, TS Vũ Công Giao, Chủ nhiệm Bộ môn Luật Hiến pháp và Luật Hành chính, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
PGS, TS Vũ Công Giao, Chủ nhiệm Bộ môn Luật Hiến pháp và Luật Hành chính, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.



Không xem nhẹ nguy cơ “lũng đoạn” chính sách
Phóng viên (PV): Từ góc độ của một nhà nghiên cứu luật, ông cho biết quy trình xây dựng pháp luật ở nước ta có đặc điểm gì so với các nước trên thế giới?
PGS, TS Vũ Công Giao: Xây dựng pháp luật là một trong những lĩnh vực hoạt động cơ bản, quan trọng nhất của mọi nhà nước. Bởi, pháp luật là cơ sở cho tổ chức, vận hành và việc thực hiện chức năng quản lý xã hội của nhà nước.
Quy trình xây dựng pháp luật ở các quốc gia ít nhiều khác nhau, song nhìn chung bao gồm những bước cơ bản là: 1) Sáng kiến pháp luật (đề xuất ý tưởng hoặc dự thảo văn bản pháp luật với cơ quan lập pháp); 2) Xem xét, thẩm tra dự thảo văn bản pháp luật của cơ quan chuyên môn trước khi trình lên cơ quan lập pháp; 3) Cơ quan lập pháp thảo luận và bỏ phiếu thông qua hoặc không thông qua dự thảo văn bản pháp luật; 4) Công bố văn bản pháp luật đã được cơ quan lập pháp thông qua.
Giống như đa số quốc gia trên thế giới, quy trình xây dựng pháp luật của Việt Nam cũng dựa trên những bước cơ bản đó. Hiện tại, quy trình xây dựng pháp luật ở Việt Nam được đề cập trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật (QPPL), trong đó trực tiếp, tập trung nhất là Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015.
Luật này quy định cụ thể nguyên tắc, thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản QPPL và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có liên quan. Việt Nam là một trong số quốc gia có một luật riêng điều chỉnh một cách toàn diện vấn đề này, trong đó bao gồm quy trình, thủ tục xây dựng nhiều dạng văn bản pháp luật chứ không chỉ riêng đạo luật.
PV: Theo ông, “nhóm lợi ích” có thể tác động như thế nào đến hoạt động xây dựng pháp luật? Trong hoạt động xây dựng pháp luật ở nước ta có biểu hiện cài cắm “lợi ích nhóm” không? Biểu hiện ở những khía cạnh nào? Đã đến mức “lũng đoạn” chính sách chưa?
PGS, TS Vũ Công Giao: Thực tế cho thấy, ở mọi quốc gia, các “nhóm lợi ích” thường nỗ lực gây ảnh hưởng đến việc xây dựng pháp luật theo hướng phù hợp với lợi ích của nhóm mình. Những nỗ lực đó có thể do các nhóm tự thực hiện hoặc thông qua việc thuê các cá nhân hay tổ chức vận động hành lang (lobbying) thực hiện bằng những cách thức khác nhau, bao gồm trực tiếp tác động đến các cơ quan, nhà hoạch định chính sách; tham gia các diễn đàn thảo luận công khai; thể hiện ý kiến trên các phương tiện truyền thông đại chúng; thực hiện các chiến dịch gây quỹ cho việc soạn thảo, gửi dự thảo, cung cấp thông tin hay chuyên gia về chính sách, văn bản pháp luật đang được dự thảo cho các cơ quan, quan chức có liên quan...
Sự tác động của các “nhóm lợi ích” đến hoạt động xây dựng pháp luật có cả tác động tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực là việc này giúp các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có nhiều dữ liệu, thông tin để xây dựng pháp luật phù hợp thực tiễn. 
Mặt tiêu cực là nếu không được quản lý tốt, các nhóm lợi ích có thể gây tác động một cách không chính đáng, bất tương xứng hay bất hợp lý đến cơ quan, nhà hoạch định chính sách, khiến cho văn bản pháp luật ban hành ra không phản ánh đúng thực tiễn, chỉ phục vụ lợi ích của một, một số nhóm xã hội, làm thiệt hại lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhà nước, cộng đồng và các nhóm xã hội khác.
Giống như nhiều quốc gia, hoạt động xây dựng pháp luật ở nước ta cũng có sự tác động của các “nhóm lợi ích”. Ý kiến phổ biến cho rằng trong hoạt động xây dựng pháp luật ở nước ta đã có biểu hiện cài cắm “lợi ích nhóm” (hiểu theo nghĩa chủ ý “lái” nội dung của văn bản pháp luật theo hướng tạo thuận lợi hay ưu đãi một cách bất hợp lý cho hoạt động của nhóm mình), đặc biệt là “lợi ích nhóm” của chính các cơ quan chủ trì soạn thảo.
Bên cạnh đó, theo một số chuyên gia, đã xuất hiện tình trạng một số “nhóm lợi ích” khác trong xã hội, đặc biệt là “nhóm lợi ích” về kinh tế, tác động đến các cơ quan và nhà hoạch định chính sách để vận động xây dựng văn bản pháp luật có lợi cho họ mà có thể gây tác động tiêu cực cho Nhà nước, xã hội và người dân.
“Lũng đoạn” chính sách có thể xem là mức độ cao nhất của tình trạng “nhóm lợi ích” tác động tiêu cực đến quá trình xây dựng pháp luật. Để đánh giá đầy đủ, chính xác về cách thức và mức độ tác động tiêu cực của một số “nhóm lợi ích” đến việc xây dựng pháp luật ở nước ta hiện nay, đặc biệt là để xác định xem tình hình đã đến mức “lũng đoạn” chính sách hay chưa, cần phải có thêm những nghiên cứu toàn diện, chuyên sâu.
Chỉ có một điều có thể khẳng định là: Tình trạng “lũng đoạn” chính sách đã xảy ra ở nhiều quốc gia, kể cả những nước phát triển. Vì thế hoàn toàn có thể xảy ra ở nước ta nếu như chúng ta chủ quan và thiếu các biện pháp phòng ngừa kịp thời, hiệu quả.
PV: Ông có thể chỉ ra căn nguyên dẫn đến tình trạng tiêu cực, “lợi ích nhóm” trong công tác xây dựng pháp luật là gì?
PGS, TS Vũ Công Giao: Ở Việt Nam, vấn đề phòng, chống tác động tiêu cực của các “nhóm lợi ích” với hoạt động của Nhà nước, trong đó bao gồm hoạt động xây dựng chính sách, pháp luật được Đảng và Nhà nước rất quan tâm.
Việt Nam đã có khung pháp luật khá toàn diện, cụ thể về việc ban hành văn bản QPPL, thể hiện qua Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015, từ đó góp phần làm giảm khả năng các “nhóm lợi ích” tác động tiêu cực đến quá trình này. Dù vậy, trong thực tế hiện nay ở nước ta vẫn có hiện tượng “nhóm lợi ích” tác động tiêu cực đến hoạt động xây dựng pháp luật. Thực trạng đó do một số nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân chủ quan và khách quan.
Nguyên nhân khách quan là do “nhóm lợi ích” và tác động của “nhóm lợi ích” đến việc xây dựng pháp luật là vấn đề tương đối mới ở Việt Nam. Trong thời kỳ bao cấp trước đây, vấn đề này hầu như không đặt ra; ở giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới (1986), tác động của “nhóm lợi ích” đến việc xây dựng pháp luật cũng rất mờ nhạt.
Chỉ trong khoảng hai thập kỷ gần đây, các “nhóm lợi ích” mới nổi lên ngày càng nhiều và tác động của các “nhóm lợi ích” đến việc xây dựng pháp luật mới ngày càng rõ và mạnh hơn. Trong bối cảnh đó, nhận thức và cách thức quản lý tác động của “nhóm lợi ích” đến việc xây dựng pháp luật ở nước ta có sự bất cập so với thực tế và có sự hạn chế so với ở những quốc gia khác trên thế giới.
Nguyên nhân chủ quan là do khung pháp luật về xây dựng văn bản QPPL của nước ta vẫn còn những hạn chế nhất định. Có thể thấy, mặc dù Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015 quy định cụ thể về nguyên tắc, thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản QPPL và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức có liên quan, song chưa chú ý đúng mức đến việc kiểm soát hoạt động của cán bộ, công chức tham gia vào quá trình xây dựng chính sách, pháp luật.
Bên cạnh đó hệ thống pháp luật hiện hành của nước ta, trong đó bao gồm Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015, chưa quy định và điều chỉnh hoạt động vận động hành lang của các “nhóm lợi ích” trong quá trình xây dựng pháp luật.
Cùng với thực tế là việc tổ chức xây dựng, giám sát việc xây dựng pháp luật có lúc, có nơi còn thiếu kiên quyết, chặt chẽ, hiệu quả, những hạn chế của hệ thống pháp luật như nêu trên đã tạo kẽ hở cho một số "nhóm lợi ích" gây tác động không chính đáng, không hợp pháp đến quá trình xây dựng pháp luật, đồng thời tạo cơ hội cho một số cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo văn bản pháp luật lồng ghép lợi ích của cơ quan, tổ chức mình vào dự thảo văn bản pháp luật.
Nên nghiên cứu xây dựng luật về vận động hành lang bảo đảm công khai, lành mạnh
PV: Ngày 14-10-2021, Bộ Chính trị khóa XIII ban hành Kết luận số 19-KL/TW “Về định hướng chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV”, trong đó nêu rõ: “Khắc phục ngay tình trạng văn bản luật thiếu tính ổn định, “luật khung, luật ống”, chậm ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành". Việc này có ý nghĩa như thế nào đối với việc phòng, chống “lợi ích nhóm”, tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật, thưa ông?
PGS, TS Vũ Công Giao: Trước hết phải nói rằng, tình trạng văn bản luật thiếu tính ổn định, “luật khung, luật ống”, chậm ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật đều là biểu hiện của những hạn chế, yếu kém, thiếu tinh thần trách nhiệm trong xây dựng pháp luật.
Thực tế cho thấy, “luật khung, luật ống” do nội dung thường thiếu cụ thể, dẫn đến nhu cầu phải ban hành các văn bản pháp quy để cụ thể hóa và hướng dẫn thi hành.
Điều đó có thể dẫn đến tình trạng như trong thời gian qua, một số bộ, ngành tự ý “đẻ” ra nhiều văn bản pháp quy chứa đựng những điều kiện, thủ tục hành chính bất hợp lý, giành thuận lợi về phía cơ quan ban hành, đẩy khó khăn về phía doanh nghiệp, người dân. Đây có thể xem là biểu hiện của “lợi ích nhóm” trong xây dựng pháp luật.
Trong thời gian qua, việc chậm ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh diễn ra khá phổ biến, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc triển khai thi hành các quy định của các luật, pháp lệnh đã có hiệu lực. Việc chậm ban hành các văn bản quy định chi tiết luật, pháp lệnh cũng tạo ra những “khoảng trống” pháp luật, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, làm giảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước, gây khó khăn, lúng túng trong việc thực thi pháp luật, tạo cơ hội cho những hành vi tham nhũng, tiêu cực diễn ra trong thực tế.
PV: Qua nhiều năm nghiên cứu khoa học pháp lý, ông thấy các quốc gia có kinh nghiệm gì về việc phòng ngừa tác động tiêu cực của các “nhóm lợi ích” trong xây dựng pháp luật mà nước ta cần tham khảo?
PGS, TS Vũ Công Giao: Kinh nghiệm nổi bật của nhiều quốc gia trên thế giới là: Để quản lý hiệu quả tác động của các “nhóm lợi ích” đến việc xây dựng pháp luật, cần luật hóa hoạt động vận động hành lang. Luật này có tác dụng buộc các “nhóm lợi ích” và các cơ quan, nhà hoạch định chính sách, pháp luật phải minh bạch hóa và có trách nhiệm giải trình về mối quan hệ của họ, từ đó các cơ quan nhà nước khác, các tổ chức xã hội, cơ quan báo chí và người dân có thể dễ dàng giám sát.
Bên cạnh đó, kinh nghiệm quốc tế cũng cho thấy, cần củng cố khung pháp lý về một loạt vấn đề có liên quan khác, như kiểm soát xung đột lợi ích trong hoạt động xây dựng pháp luật; kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong xây dựng chính sách, pháp luật; chống độc quyền, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động kinh doanh; phát huy vai trò của các tổ chức xã hội và các cơ quan truyền thông trong quản trị quốc gia và phòng, chống tham nhũng.
PV: Ông có đề xuất giải pháp gì để góp phần ngăn ngừa tình trạng cài cắm “lợi ích nhóm”, tham nhũng, tiêu cực trong xây dựng pháp luật ở nước ta hiện nay?
PGS, TS Vũ Công Giao: Kết luận số 19-KL/TW ngày 14-10-2021 của Bộ Chính trị khóa XIII “Về định hướng chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV” đã đưa những vấn đề rất cơ bản; trong đó đặc biệt nhấn mạnh phải siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nhất là người đứng đầu trong xây dựng pháp luật.
Đây có thể xem là giải pháp mấu chốt để ngăn ngừa hiệu quả hành vi cài cắm “lợi ích nhóm”, lợi ích cục bộ của cơ quan chủ trì xây dựng văn bản pháp luật, cũng như những hành vi tham nhũng, tiêu cực khác trong xây dựng pháp luật ở nước ta hiện nay.
Bên cạnh đó, để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật, cần hoàn thiện khung pháp luật về ban hành văn bản pháp luật để bảo đảm các cơ quan chủ trì và cán bộ, công chức tham gia công tác này không bị chi phối, tác động không lành mạnh của bất cứ tổ chức, cá nhân nào. Muốn như vậy, cần công nhận và luật hóa vận động hành lang để bảo đảm tính công khai, minh bạch, thích đáng của hoạt động có tính tất yếu này.
PV: Theo ông, đã đến lúc chúng ta cần có luật về vận động hành lang để phòng, chống tham nhũng, “lợi ích nhóm”, tiêu cực trong xây dựng pháp luật chưa?
PGS, TS Vũ Công Giao: Theo tôi, đã đến lúc cần nghiên cứu xây dựng luật về vận động hành lang, vì như đã nêu ở phần trên, luật này là cốt yếu để có thể bảo đảm tính hợp pháp, công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình, không chỉ của các chủ thể hoạt động vận động hành lang mà còn của các cơ quan chủ trì và cán bộ, công chức tham gia xây dựng chính sách pháp luật.
Tất nhiên, chúng ta cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng, tham khảo kinh nghiệm quốc tế để xây dựng luật này phù hợp với đặc điểm, điều kiện chính trị, pháp lý ở nước ta, qua đó góp phần kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng chính sách hiệu quả như mong muốn của Đảng và Nhà nước.
PV: Trân trọng cảm ơn ông! 

Tác phẩm đoạt giải khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất