Tác phẩm đoạt giải

Tọa đàm khoa học: “Những ý kiến tâm huyết với bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng”

Kính thưa các nhà khoa học, quý vị đại biểu!

Nhân dịp kỷ niệm 131 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1890 - 19-5-2021), đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có bài viết: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Bài viết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, phản ánh cả tầm tư tưởng - lý luận và định hướng thực tiễn; có tác động to lớn, sâu rộng đến tư tưởng, tình cảm, hành động của mỗi tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Bài viết dù đặt tiêu đề rất khiêm tốn là “Một số vấn đề” nhưng thực ra đề cập những vấn đề rất rộng lớn, rất cơ bản và sâu sắc ở tầm tư tưởng - lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó vừa là tiền đồ, tương lai phải định hướng để đạt được, vừa là hiện thực phải định hình từng bước trong mỗi bước đi của công cuộc đổi mới.

Một trong những điểm nhấn của bài viết là đưa ra những lý lẽ sâu sắc, luận cứ thuyết phục về tính tất yếu thay thế của chủ nghĩa xã hội đối với chủ nghĩa tư bản. Lựa chọn con đường lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan, là giải pháp đúng đắn để mang lại độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân. Sự nghiệp đổi mới phải luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, bởi chủ nghĩa xã hội không chỉ mang lại độc lập cho dân tộc, mà còn là con đường duy nhất đúng đắn để thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Thế giới đang chịu nhiều tác động tiêu cực bởi mặt trái của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, của các nền dân chủ đa nguyên, khiến bất công xã hội ngày càng gia tăng, xung đột xã hội bùng nổ ở nhiều nước, suy thoái môi trường diễn ra nghiêm trọng. Chủ nghĩa tư bản tự nó không thể giải quyết được các vấn nạn, các khuyết tật nêu trên - bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh sâu sắc điều này - mà đó là vấn đề phi chủ nghĩa tư bản, tức là vấn đề của chủ nghĩa xã hội. Không ít người đã từng say sưa với chủ nghĩa tự do, nhưng sự thật trần trụi được phơi bày đã làm phản tỉnh họ, nhất là trong cuộc khủng hoảng y tế lần này hay các cuộc bầu cử gây chia rẽ xã hội, đánh mất lòng tin của cử tri trong các nền dân chủ đa đảng hay lưỡng đảng, gây nên các xung đột làm rạn nứt các kết cấu xã hội, đánh rơi mặt nạ “dân chủ” mà các lý luận gia tư sản luôn rêu rao và tìm cách “xuất khẩu dân chủ”.

Trong bài viết này, đồng chí Tổng Bí thư đã làm rõ những vấn đề cốt lõi của chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta kiên định trong quá trình đổi mới. Có thể ở các văn kiện, tài liệu khác đã đề cập những nội dung này, nhưng tiếp cận dưới góc độ một bài báo, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phân tích các vấn đề cốt lõi đó bằng lập luận khoa học, thuyết phục, kể cả phản bác đanh thép, sắc bén những luận điệu xuyên tạc, sai trái về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị.

Bài viết nhấn mạnh rằng, phát triển kinh tế thị trường phải gắn liền với giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi kinh tế thị trường có vai trò trong phân bổ hiệu quả nguồn lực, phát triển lực lượng sản xuất, nhưng mặt trái của kinh tế thị trường là phân hóa giàu nghèo, gây nên các bất công xã hội, bỏ rơi những người kém may mắn, chạy theo lối sống sùng bái vật chất, hình thành “nhóm trục lợi” xem đồng tiền là tối thượng mà bất chấp đạo lý, sẵn sàng hy sinh lợi ích công cộng. Định hướng xã hội chủ nghĩa chính là phát huy mặt tích cực và hóa giải, giảm thiểu mặt tiêu cực của thị trường, gắn với phát huy đầy đủ vai trò nhà nước và xã hội. Đây là cơ sở rất quan trọng cho phân tích, đánh giá tình hình và đề ra mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể cho từng giai đoạn phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ, tránh các biểu hiện chủ quan, nóng vội, duy ý chí, đốt cháy giai đoạn hoặc xa rời, chệch hướng xã hội chủ nghĩa.

Bài viết lưu ý rằng, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng, hoàn thiện không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ, hoàn chỉnh. Phải nhận thức đầy đủ khái niệm định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện cơ chế thị trường. Định hướng xã hội chủ nghĩa là làm cho mục tiêu xã hội chủ nghĩa luôn được quản trị, giữ vững trong quá trình đổi mới đất nước; làm cho nhân tố xã hội chủ nghĩa, những cái tốt đẹp luôn giữ vai trò chủ đạo, lớn dần lên trong quá trình cạnh tranh với các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa.

Cùng với vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa là định hình chủ nghĩa xã hội, tức phải làm cho bản chất tốt đẹp, giá trị của chủ nghĩa xã hội được hiện thực hóa trong đời sống hằng ngày mà người dân được thụ hưởng gắn với điều kiện, lộ trình cụ thể. Đó chính là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, tăng trưởng kinh tế phải gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước đi và từng chính sách phát triển, không được hy sinh tiến bộ và công bằng xã hội cho tăng trưởng kinh tế.

Trên quan điểm duy vật biện chứng, bài viết đã làm rõ đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội gắn với yêu cầu giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, được phân biệt với đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở dạng hoàn chỉnh. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng, giúp không ít người khắc phục những nhầm lẫn giữa mục tiêu hướng tới và các biện pháp trung gian quá độ, nhất là khắc phục các biểu hiện nóng vội, chủ quan, duy ý chí lấy các đặc trưng chế độ xã hội chủ nghĩa hoàn chỉnh trong tương lai bắt hiện thực phải khuôn theo.

Kính thưa các nhà khoa học, quý vị đại biểu!

Tọa đàm khoa học: “Những ý kiến tâm huyết với bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng” do Tạp chí Cộng sản tổ chức là dịp để chúng ta cùng nhau bày tỏ những ý kiến tâm huyết của mình đối với bài viết, đồng thời bàn luận, phân tích để làm sâu thêm về nội dung của bài viết quan trọng này, từ đó cung cấp những thông tin bổ ích, có ý nghĩa rất quan trọng giúp các cấp ủy, tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên nhận thức sâu sắc hơn đường chúng ta đi, đích chúng ta đến để rèn thêm bản lĩnh, làm tròn trách nhiệm cao nhất, tuyệt đối không được dao động, ngả nghiêng.

Ban Tổ chức tọa đàm trân trọng đề nghị các nhà khoa học, các vị đại biểu từ kết quả nghiên cứu của bản thân, từ kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn, cùng trao đổi, thảo luận một số nội dung chủ yếu:

Thứ nhất, những nhận thức lý luận chung về bản chất, đặc trưng, tính tất yếu, tính ưu việt… của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, qua bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.

Để tránh rơi vào chủ quan duy ý chí, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lưu ý rằng, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội. Do đó, cần phòng ngừa bệnh “tả khuynh” hoặc “hữu khuynh” thường gặp trong thời kỳ quá độ ra sao? Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là phủ định sạch trơn hay cần kế thừa có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được?...

Thứ hai, những vấn đề cụ thể đã được làm sáng rõ ra sao qua bài viết của đồng chí Tổng Bí thư, trên các mặt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; tính ưu việt, những giá trị tiến bộ, nhân văn và việc xây dựng xã hội, văn hóa, con người xã hội chủ nghĩa; bản chất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa?…

Thứ ba, những công việc tiếp theo cần được tiến hành bài bản, gồm cả nghiên cứu lý luận và tổ chức thực tiễn, để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới vì chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt là việc cụ thể hóa, thể chế hóa các quan điểm, định hướng, chỉ dẫn của đồng chí Tổng Bí thư; nâng cao trách nhiệm mỗi tổ chức và cá nhân; tạo sự thống nhất trong Đảng và đồng thuận trong xã hội để thực hiện thắng lợi các mục tiêu đề ra.

Kính thưa các nhà khoa học, quý vị đại biểu!

Trong quá trình chuẩn bị và tổ chức tọa đàm, Ban Tổ chức nhận được sự ủng hộ và nhiều ý kiến tâm huyết, kiến giải sâu sắc của các nhà khoa học, nhà lãnh đạo, quản lý đối với bài viết quan trọng của đồng chí Tổng Bí thư. Sau tọa đàm hôm nay, Ban Tổ chức mong muốn tiếp tục nhận được các ý kiến quý báu, tâm huyết của đông đảo bạn đọc gửi về cho Tạp chí Cộng sản, để chúng ta cùng hiểu sâu sắc thêm, cùng thống nhất và đồng thuận thực hiện những chỉ đạo quan trọng của đồng chí Tổng Bí thư gửi gắm trong bài viết.

Thay mặt Ban Tổ chức tọa đàm, xin kính chúc toàn thể các đồng chí sức khỏe, thành công! Chúc tọa đàm thành công tốt đẹp!

Xin trân trọng cảm ơn!

 

THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

Chủ tọa: Bài viết của Tổng Bí thư làm sáng rõ và gợi mở nhiều nhận thức lý luận mới về bản chất, những đặc trưng, tính tất yếu,… của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, xin các vị khách mời làm rõ thêm những nội dung trên.

GS, TS. Phùng Hữu Phú: Về những đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề cập và luận giải sâu sắc, thuyết phục về nhiều vấn đề cơ bản trong đường lối cách mạng của Đảng ta, nổi bật là vấn đề thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Bài viết nhấn mạnh tính tất yếu và những đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thể hiện ở một số nội dung cốt lõi:

Một là, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đó là mục tiêu, lý tưởng mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn; mục tiêu cao cả đó phù hợp với yêu cầu của thực tiễn cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển tất yếu của thời đại.

Hai là, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình biến đổi cách mạng lâu dài, gian khổ, bởi lẽ đây là quá trình “kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất”, “phải tạo sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội”. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ của lực lượng sản xuất rất thấp; lại trải qua mấy chục năm chiến tranh ác liệt để lại hậu quả nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên chống phá..., do vậy thời kỳ quá độ càng lâu dài, khó khăn hơn.

Ba là, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cùng tồn tại đan xen, đấu tranh gay go, phức tạp, quyết liệt giữa các nhân tố xã hội chủ nghĩa và các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa, trong đó có nhân tố tư bản chủ nghĩa, nhất là trong điều kiện cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

Bốn là, quá độ lên chủ nghĩa xã hội “là một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục hướng đích lâu dài, không thể nóng vội”.

  

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng dự Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc với nhân dân thôn Thượng Điện, xã Vinh Quang, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng, ngày 15-11-2017 - Ảnh: Tư liệu

PGS, TS. Đỗ Thị Thạch: Có thể khẳng định, tư tưởng bao trùm trong bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là tập trung làm rõ hai câu hỏi: Chủ nghĩa xã hội là gì? Vì sao Việt Nam lại đi lên chủ nghĩa xã hội?

Câu hỏi thứ hai đã được Tổng Bí thư làm rõ trong luận điểm: Ngay từ khi ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định: Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam.

Sự lựa chọn này không phải là nhất thời, mà ngay từ khi Đảng ta mới ra đời, kể cả khi phải trải qua những thời điểm khó khăn, cam go đối với vận mệnh của dân tộc và cách mạng Việt Nam, thì chúng ta vẫn kiên định, kiên trì với mục tiêu duy nhất, trước sau như một là đi lên chủ nghĩa xã hội. Đồng chí Tổng Bí thư nhấn mạnh, ngay trong Cương lĩnh năm 1930, Đảng khẳng định: “Tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa”. Khi chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu rơi vào khủng hoảng và đổ vỡ vào những năm 90 của thế kỷ XX, Đảng ta tiếp tục kiên định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Đặc biệt, trong Cương lĩnh tại Đại hội XI (năm 2011) của Đảng, chúng ta một lần nữa khẳng định quyết tâm: "Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử"; quan điểm chỉ đạo đầu tiên của Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đối với cách mạng Việt Nam trong giai đoạn tới là “… kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.

Như vậy, có thể khẳng định chắc chắn rằng, đây là sự lựa chọn hết sức khoa học, có căn cứ lý luận và thực tiễn trong nước và thế giới, lịch sử và hiện tại, đã đáp ứng đúng khát vọng của nhân dân Việt Nam, hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Điều này được quy định bởi các lý do sau:

Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội mà con người được tự do, sống hòa bình và hữu ái giữa các cộng đồng, không còn áp bức, bóc lột, bất công, một xã hội thực sự vì con người. Đồng chí Tổng Bí thư nhấn mạnh, đây là một xã hội “… phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội…, nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn…, phát triển bền vững, hài hòa để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai”; là xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Rõ ràng, đây là những khát vọng, mong ước tốt đẹp cháy bỏng không chỉ của nhân dân Việt Nam mà của cả nhân loại đều hướng đến.

Thứ hai, đường lối xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại là “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”; và “chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có thể giải quyết căn cơ vấn đề độc lập cho dân tộc và cuộc sống tự do, hạnh phúc cho số đông nhân dân”. Thực tiễn cách mạng Việt Nam, từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhất là những thành tựu của 35 năm đổi mới giúp “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” là minh chứng hùng hồn và thuyết phục, tự nó khẳng định đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam, là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn đối với tương lai của dân tộc Việt Nam.

Thứ ba, hiện nay, chủ nghĩa tư bản, nhất là ở một số nước tư bản phát triển, đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế, khoa học và công nghệ; có sự điều chỉnh nhất định về sở hữu, an sinh xã hội… làm cho diện mạo của chủ nghĩa tư bản khác nhiều so với trước đây. Tuy nhiên, Tổng Bí thư đã chỉ rõ: “Chủ nghĩa tư bản không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó”. Các cuộc khủng hoảng về nhiều mặt tiếp tục diễn ra “đang đặt ra nhiều thách thức vô cùng to lớn cho sự tồn tại và phát triển của nhân loại”. Nhân dân Việt Nam không cần một xã hội đầy rẫy bất công, “không bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái”. Chúng ta cần một xã hội “mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người…”.

 

Thứ tư, khủng hoảng và đổ vỡ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu, theo ý kiến của Tổng Bí thư trong bài viết, không phải là do sai lầm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin như những luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực chống cộng, cơ hội chính trị, kể cả sự phụ họa của một số người bi quan, dao động trong hàng ngũ cách mạng. Tất cả những người cộng sản chân chính đều thấy rõ nguyên nhân chủ yếu của sự kiện này xuất phát từ việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin một cách máy móc, thiếu sáng tạo, thậm chí sai lầm, đặc biệt là sự phản bội lý tưởng, mục tiêu chủ nghĩa xã hội một cách trắng trợn, sự thoái hóa, biến chất trầm trọng của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất là những người đứng đầu của một số đảng cộng sản ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu khi đó.

Chủ tọa: Rõ ràng, bản chất vị kỷ vì lợi ích của chỉ riêng giai cấp tư sản trong xã hội tư bản chủ nghĩa càng làm chúng ta thấy rõ thêm tính ưu việt trong bản chất của chủ nghĩa xã hội, thưa PGS, TS. Lưu Ngọc Khải?

PGS, TS. Lưu Ngọc Khải: Đúng vậy. Tôi rất tâm đắc với các nội dung thể hiện trong bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhất là về bản chất của chủ nghĩa xã hội. Về mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Tổng Bí thư khẳng định, Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội dựa trên chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thực sự vì lợi ích của nhân dân lao động, chứ không phải vì lợi nhuận và chà đạp lên phẩm giá con người như trong xã hội tư bản.

Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.

Bản chất kinh tế của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tổng Bí thư cho rằng đó là “bước tiến đột phá về lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vừa tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới về kinh tế thị trường, vừa phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam, vì kinh tế thị trường là giá trị chung của nhân loại đạt được trong chế độ tư bản chủ nghĩa, không phải là giá trị riêng có của giai cấp tư sản.

Bản chất chính trị của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là dân chủ xã hội chủ nghĩa, với nội hàm quan trọng nhất là tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, với “mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân là chủ”, như Tổng Bí thư khẳng định. Sự khác nhau giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nhà nước pháp quyền tư sản là “pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân”. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam.

Bản chất xã hội của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam xây dựng là xã hội phát triển hài hòa, tiến bộ, công bằng vì con người. Trong bài viết, Tổng Bí thư khẳng định ở những nước tư bản thường diễn ra những tình huống “phát triển xấu”, những nghịch lý “phản phát triển”, từ địa hạt kinh tế - tài chính đã lan tràn sang lĩnh vực xã hội, làm bùng nổ các xung đột xã hội ngày càng trầm trọng… Trong khi đó, chúng ta không chạy theo kinh tế đơn thuần và bằng mọi giá, mà luôn luôn gắn kết hài hòa với yếu tố xã hội, bảo đảm lợi ích chân chính của nhân dân lao động. Điều đó có nghĩa là, không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trong điều kiện nền kinh tế của chúng ta còn đang phát triển, gặp nhiều khó khăn, song Đảng, Nhà nước ta luôn coi trọng thực hiện các chính sách xã hội, an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn, yếu thế…

Mỗi chủ trương, chính sách kinh tế của Đảng, Nhà nước ta đều thấm đượm và gắn chặt với chính sách xã hội, coi trọng và phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vì một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, khuyến khích nhân dân làm giàu. Trong xã hội của ta, con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới… Đó chính là những điều thể hiện rõ tính ưu việt và bản chất tốt đẹp của xã hội xã hội chủ nghĩa mà cả dân tộc ta đang chung sức, đồng lòng xây dựng, dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng.

 

PHÒNG NGỪA BỆNH “TẢ” HOẶC “HỮU KHUYNH” TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ

Chủ tọa: Xin GS, TS. Phùng Hữu Phú cho biết việc phòng ngừa bệnh “tả khuynh” hoặc “hữu khuynh” thường gặp trong thời kỳ quá độ?

GS, TS. Phùng Hữu Phú: Những đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta được nhấn mạnh trong bài viết của Tổng Bí thư là căn cứ khoa học quan trọng giúp cho việc phòng ngừa các căn bệnh tư tưởng dễ mắc trong bước chuyển của cách mạng, trong đó có bệnh “tả” hoặc “hữu khuynh”.

Phòng ngừa các biểu hiện “tả” hoặc “hữu khuynh” trên nền tảng kiên định, không ngừng đổi mới, sáng tạo; nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia mạnh mẽ của nhân dân.

Để phòng tránh những tật bệnh này, thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Tổng Bí thư nhấn mạnh tư duy và phương pháp biện chứng trong xây dựng đất nước. “Phải luôn luôn kiên định, vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin”; đồng thời phải không ngừng sáng tạo, làm cho “chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống” bằng cách chú trọng tổng kết thực tiễn và tiếp thu có chọn lọc những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học của nhân loại. Phải lựa chọn các bước đi, các hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen, phù hợp; xem xét tỉnh táo, xử lý kịp thời, hiệu quả các tình huống nảy sinh, làm cho các nhân tố xã hội chủ nghĩa “ngày càng chi phối, áp đảo và chiến thắng”, trở thành xu hướng chủ đạo trong đời sống kinh tế - xã hội.

Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới với “tầm nhìn mới, bản lĩnh mới và sức sáng tạo mới”, gắn bó chặt chẽ phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xây dựng con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại.

Đường lối đúng đắn, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng là nhân tố quyết định thành công sự nghiệp xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sức mạnh sáng tạo, sự ủng hộ mạnh mẽ, tham gia tích cực của nhân dân là “cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát triển”.

 

NHỮNG MẪU THUẪN NAN GIẢI CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN NAY

Chủ tọa: Ý kiến của PGS, TS. Đỗ Thị Thạch có đề cập đến những mâu thuẫn mang tính bản chất không thể khắc phục được của chủ nghĩa tư bản, xin GS, TS. Vũ Văn Hiền có thể làm rõ hơn về những mâu thuẫn nan giải của chủ nghĩa tư bản ngày nay?

 

Cảnh sát ngăn người biểu tình quá khích đột nhập vào trụ sở Quốc hội Mỹ ở Washington, DC ngày 6-1-2021 _Ảnh: AFP/TTXVN

GS, TS. Vũ Văn Hiền: Cho dù chủ nghĩa tư bản ngày nay có những điều chỉnh, biểu hiện mới trong hình thức quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối nhưng vẫn không thể khắc phục được mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó, gồm: (1) Mâu thuẫn giữa tư bản và lao động. Quy luật bóc lột giá trị thặng dư vẫn luôn là quy luật kinh tế tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, dù được biểu hiện dưới những hình thức tinh vi hơn, khiến sự phân cực giàu nghèo và tình trạng bất công xã hội ngày càng tăng lên trong xã hội tư bản. Theo đó, cả sự bần cùng hóa tuyệt đối lẫn tương đối của giai cấp công nhân vẫn đang tồn tại. Trong xã hội tư bản ngày nay, sự bất bình đẳng, tệ phân biệt chủng tộc, tình trạng bất công, sự suy đồi về xã hội, văn hóa và đạo đức, các tệ nạn xã hội, tội ác và bạo lực… cũng ngày càng trầm trọng. (2) Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc. Ngày nay, mâu thuẫn này đang chuyển thành mâu thuẫn giữa các nước chậm phát triển bị lệ thuộc với những nước đế quốc. (3) Mâu thuẫn giữa các nước tư bản chủ nghĩa với nhau, chủ yếu là giữa các trung tâm kinh tế, chính trị hàng đầu của thế giới tư bản, giữa các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia. (4) Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Mâu thuẫn này tồn tại một cách khách quan và là mâu thuẫn xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Nó biểu hiện rõ trong mưu đồ của các thế lực đế quốc lợi dụng sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và một số nước Đông Âu để đẩy mạnh những cuộc phản kích bằng mọi thủ đoạn nhằm xóa bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại. Ngày nay, tuy hình thức biểu hiện có những điểm khác trước đây, song đây luôn là cuộc đấu tranh quyết liệt, mang tính sống còn…

Những mâu thuẫn này là nan giải, bởi chủ nghĩa tư bản từ khi ra đời đến nay dù gắng gượng có sự điều chỉnh để thích nghi với bối cảnh mới và để tiếp tục tồn tại, nhưng vẫn không thể khắc phục được những căn bệnh cố hữu của nó. Bộ áo cánh sặc sỡ của chủ nghĩa tư bản không che đậy được những ung nhọt và xấu xa bên trong nó.

Ngay cả một số nước trên thế giới từng từ bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa để đi theo con đường chủ nghĩa tư bản, thì đã qua 30 năm, những nước này vẫn phải đối mặt thường xuyên với sự bất ổn về chính trị, những khó khăn chồng chất về kinh tế - xã hội…, khiến nhiều người thấy nuối tiếc những năm tháng trước đây, khi còn hệ thống xã hội chủ nghĩa.

Thấy rõ những mâu thuẫn bản chất nan giải của chủ nghĩa tư bản để càng thấm thía hơn, hiểu rõ hơn vì sao chúng ta lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Bởi, “chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội... Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một ít cá nhân và các phe nhóm”, như bài viết của GS, TS. Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định.

Những thành tựu to lớn đơm hoa kết trái từ thực hiện đường lối đổi mới của đất nước ta, với những kết quả rất cụ thể, mọi người dân đều cảm nhận được và được thụ hưởng những thành quả đó, càng là minh chứng cho đường lối phát triển đúng đắn của Đảng ta, đồng thời là cơ sở thực tiễn phản bác một cách thuyết phục, đanh thép các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch; củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng - một Đảng hội đủ năng lực, uy tín, dày dạn kinh nghiệm lãnh đạo; tuyệt đối không có một lực lượng chính trị nào có thể thay thế được - tiếp tục lãnh đạo thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vững vàng chèo lái con thuyền cách mạng của Việt Nam đến bến bờ phồn vinh, hạnh phúc.

 

 

Chủ tọa: Bản chất của Đảng ta và ý nghĩa của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa thể hiện thế nào qua bài viết của Tổng Bí thư, thưa PGS, TS. Nguyễn Văn Giang?

PGS, TS. Nguyễn Văn Giang: Về bản chất của Đảng, bài viết của Tổng Bí thư trình bày một số điểm quan trọng, trong đó tập trung luận giải vì sao Đảng ta là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Bài viết khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam”, tức là trước hết, trên hết, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, mang bản chất của giai cấp công nhân, phấn đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân Việt Nam. Tuy nhiên, đặc thù của giai cấp công nhân Việt Nam “là giai cấp có lợi ích thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động và toàn dân tộc’’,  nên một cách tự nhiên, Đảng Cộng sản Việt Nam “ra đời, tồn tại và phát triển là vì lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc”.

  

Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII ra mắt Đại hội _Ảnh: TTXVN

Nếu như ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, đảng cộng sản ra đời, tồn tại và phát triển cơ bản là từ sự phát triển của phong trào công nhân, vì lợi ích của giai cấp công nhân, thì ở Việt Nam, Đảng Cộng sản ra đời, tồn tại và phát triển trước hết lại từ yêu cầu của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân bị nô lệ, mà trong đó giai cấp công nhân là một bộ phận. Dưới lá cờ của Đảng, để giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân, cả dân tộc ta với tất cả các giai tầng xã hội yêu nước đã đứng lên chiến đấu, hy sinh để giành độc lập, thống nhất non sông, đưa nhân dân lên địa vị người chủ đất nước. Đảng ta được toàn dân thừa nhận là đội tiên phong lãnh đạo của mình.

Cần lưu ý là xung quanh vấn đề bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam, có 2 câu hỏi thường gặp: Một là, ở Việt Nam, giai cấp công nhân chiếm tỷ lệ nhỏ trong dân số, phần đông đảng viên không xuất thân từ công nhân, tại sao Đảng Cộng sản Việt Nam lại là đội tiên phong của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân được? Hai là, nói Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam có phải làm cho Đảng ta trở thành Đảng “phi giai cấp”, “đảng toàn dân”?

Bài viết của Tổng Bí thư đã giải đáp cả hai vấn đề này:

Thứ nhất, nói Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam “không có nghĩa là hạ thấp bản chất giai cấp của Đảng, mà là thể hiện sự nhận thức bản chất giai cấp của Đảng một cách sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, vì giai cấp công nhân là giai cấp có lợi ích thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động và toàn dân tộc”. Và xin nhớ lại thêm một lý do từ sự giải thích của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (năm 1951) về diễn đạt này: “Nói Đảng Lao động Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam, không phải làm cho Đảng biến thành một khối liên minh giai cấp mà cốt là để:

- Tất cả các tầng lớp nhân dân lao động thành thị và thôn quê, chân tay và trí óc ở Việt Nam đều nhận Đảng Lao động Việt Nam là đảng của mình;

- Định rõ hướng để kết nạp đảng viên mới là: công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động khác”.

Thứ hai, bài viết đã trả lời câu hỏi thứ nhất đó là vì sao và làm thế nào để Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn là đảng mang bản chất giai cấp công nhân khi phần đông đảng viên của Đảng không xuất thân từ công nhân với đoạn viết khẳng định: “Đảng ta kiên trì lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản”. Cũng từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (năm 1951), Đảng ta đã giải thích: Đảng Lao động Việt Nam Nam là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Song thực chất, Đảng Lao động Việt Nam vẫn là đảng của giai cấp công nhân, vẫn là đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, vì Đảng Lao động Việt Nam có đủ những tính chất căn bản của một đảng cách mạng kiểu mới của giai cấp công nhân: 1- Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng tư tưởng; 2- Đảng lấy dân chủ tập trung làm nguyên tắc tổ chức; 3- Đảng lấy tự phê bình và phê bình làm quy luật phát triển. Ngoài ra, Đảng có một Chính cương xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, kết hợp với thực tiễn Việt Nam. Đảng lại luôn luôn mật thiết liên hệ với quần chúng. Như vậy, rõ ràng, dù phần đông đảng viên của Đảng không xuất thân từ công nhân nhưng luôn đứng trên lập trường của giai cấp công nhân thì Đảng vẫn mang đậm bản chất giai cấp công nhân.

Về ý nghĩa của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bài học lớn của thực tiễn cách mạng Việt Nam được ghi trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng ban hành năm 1991 là: “Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam”. Theo lô-gíc tự nhiên thì sự lãnh đạo của Đảng cũng là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới hiện nay. Bài viết của Tổng Bí thư đã khẳng định nhận thức về quy luật này và đi đến kết luận quan trọng: “Chúng ta đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa”. Tính đặc biệt của nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay xuất phát từ nhiều lý do, trong đó cần chú ý là:

- Theo quy luật, tổ chức nào cũng chịu sự chi phối của quy luật vòng đời tổ chức, tức là có sinh ra - phát triển - và thoái hóa, không có tổ chức vĩnh cửu. Muốn kéo dài sự tồn tại, phát triển của tổ chức thì phải thường xuyên, nỗ lực đổi mới, tái tổ chức. Đảng cũng là một tổ chức nên muốn tồn tại phải thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

- Công cuộc đổi mới có tính cách mạng với không ít khó khăn và những thách thức mới mẻ, nghiêm trọng, nếu công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng không được coi trọng đúng mức, Đảng không đủ trí tuệ, năng lực, phẩm chất thì không thể lãnh đạo giải quyết được, thậm chí có thể sẽ phạm những sai lầm không thể sửa chữa, mà Đảng Cộng sản Liên Xô là một bài học nhãn tiền vẫn nóng hổi.         

- Tham nhũng là một “căn bệnh ung thư” gắn liền với tha hóa quyền lực và có thể sẽ hủy hoại tất cả. Thực tiễn đổi mới vừa qua cho thấy, có lúc tuy bước đầu đẩy mạnh được phát triển kinh tế nhưng do công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng không được thật sự chú trọng, hiệu quả; tham nhũng không được ngăn chặn, đẩy lùi, mà còn diễn biến phức tạp, lan vào mọi lĩnh vực, mọi cấp, không chỉ gây thiệt hại đặc biệt lớn về kinh tế mà còn làm triệt tiêu dần động lực phát triển để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đe dọa sinh mệnh của Đảng, của chế độ. Do đó, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, chống tiêu cực, giữ gìn sự trong sạch của hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng có ý nghĩa quyết định tới thắng lợi của cách mạng nước ta trong bối cảnh hiện nay.

Thực tiễn đó càng cho thấy thêm sự đúng đắn của luận điểm lớn trong bài viết: “Nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa”.

 

SỰ KHÁC BIỆT VỀ BẢN CHẤT GIỮA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN TƯ SẢN

Chủ tọa: Mặc dù mang những giá trị tiến bộ của nhà nước pháp quyền, nhưng giữa nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền tư sản có sự khác biệt về bản chất, xin GS, TS. Trần Ngọc Đường cho biết thêm về nhận định này trong bài viết của Tổng Bí thư?

GS, TS. Trần Ngọc Đường: Trong bài viết: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” khi đề cập đến Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Chúng ta nhận thức rằng, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bản chất khác với nhà nước pháp quyền tư sản là ở chỗ: pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân”.

Theo tôi, nhận định quan trọng trên của Tổng Bí thư có các ý nghĩa sau:

Một là, phải nắm vững bản chất giai cấp của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng.

Nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước. Từ khi ra đời cho đến nay chỉ có 4 kiểu nhà nước: Nô lệ, phong kiến, tư sản và xã hội chủ nghĩa. Kiểu nhà nước là khái niệm thể hiện bản chất của các kiểu nhà nước khác nhau. Còn “nhà nước pháp quyền” là khái niệm để chỉ một hệ thống các quan điểm có tính lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về tổ chức quyền lực nhà nước và tổ chức đời sống xã hội với thượng tôn hiến pháp và pháp luật là nguyên tắc tối cao. Nó không phải là một kiểu khà nước, nên khi nói đến nhà nước pháp quyền, các nhà tư tưởng thường đề cập đến các giá trị phổ quát sau đây:

+  Nhà nước pháp quyền là phương thức hợp lý để thống nhất quyền lực nhà nước với quyền tự do của con người. Nhà nước đó có các đặc điểm cơ bản và quan trọng nhất là: Hiến pháp và pháp luật giữ địa vị tối thượng trong đời sống nhà nước và đời sống xã hội; quyền lực nhà nước có sự phân công rành mạch giữa lập pháp, hành pháp, tư pháp; có cơ chế pháp lý hữu hiệu để chống lại sự tùy tiện và vi phạm quyền con người, quyền công dân từ phía nhà nước.

Tìm hiểu danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp được niêm yết tại hội trường Ủy ban nhân dân thị trấn Trường Sa, huyện Trường Sa, tỉnh Khánh Hoà _Ảnh: Tư liệu

+  Nhà nước pháp quyền là nhà nước từ tổ chức đến hoạt động đều phải dựa trên nguyên tắc: Hiến pháp và pháp luật phải giữ vị trí tối thượng; chủ quyền nhân dân cao hơn quyền lực nhà nước, quyền con người, quyền công dân là các giá trị cao quý được nhà nước thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm bằng pháp luật.

Như vậy, theo quan niệm trên thì nhà nước pháp quyền có các giá trị phổ quát. Tuy nhiên, không vì thế mà cho rằng, các giá trị pháp quyền trong các kiểu nhà nước khác nhau không mang bản chất giai cấp khác nhau. Trong các kiểu nhà nước khác nhau, với bản chất giai cấp khác nhau thì pháp quyền, theo Tổng Bí thư, mang tính giai cấp sâu sắc và khác nhau về bản chất. Cũng là đề cao pháp quyền (đề cao sự thượng tôn hiến pháp, pháp luật), nhưng trong nhà nước pháp quyền tư sản thì đó là đề cao hiến pháp và pháp luật, trước hết thể hiện ý chí của giai cấp tư sản bảo vệ quyền và lợi ích của riêng giai cấp tư sản. Ngược lại, trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của chúng ta, đề cao pháp quyền là đề cao Hiến pháp và pháp luật, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đại đa số nhân dân lao động. Chính vì thế, pháp quyền xã hội chủ nghĩa khác về bản chất so với pháp quyền tư sản, là pháp quyền phải trở thành “công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân”. Vì thế, trước hết phải nhận thức sâu sắc bản chất giai cấp của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà nước ta đang xây dựng là “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” như Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định.

Hai là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nước ta là nhà nước pháp quyền do một đảng - Đảng Cộng sản Việt Nam - lãnh đạo. Ở các nước pháp quyền tư sản là nhà nước pháp quyền đa đảng. Vì thế, trong hầu hết các bài viết, bài nói của Tổng Bí thư đều nhấn mạnh phải “nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới”, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội như Hiến pháp năm 2013 quy định. Đây có thể nói là đặc thù của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta khác biệt với các nhà nước pháp quyền của các nhà nước tư sản trên thế giới. Vì vậy, phải nắm vững đặc điểm này để một mặt bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; mặt khác không ngừng đổi mới và nâng cao năng lực cầm quyền để Đảng xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

 

NHỮNG GIÁ TRỊ TIẾN BỘ, NHÂN VĂN ĐÍCH THỰC CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

TRONG XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN XÃ HỘI, VĂN HOÁ, CON NGƯỜI

Nhân dân xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng tặng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bức tượng Trình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm _Ảnh: TTXVN

Chủ tọa: Trong bài viết của mình, Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người… Đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội”. Vậy, tính ưu việt, những giá trị tiến bộ, nhân văn và việc xây dựng xã hội, văn hóa, con người xã hội chủ nghĩa… được thể hiện ra sao trong bài viết của Tổng Bí thư?  

PGS, TS. Cao Thu Hằng: Các luận điểm trong bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định việc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là đúng quy luật khách quan của sự phát triển xã hội, đồng thời chỉ rõ đặc trưng và cơ sở nền tảng của xã hội xã hội chủ nghĩa của Việt Nam.

Thứ nhất, về đặc trưng, sự phát triển xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là sự phát triển khách quan của xã hội loài người. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã khẳng định, sự vận động của các xã hội trong lịch sử là một quá trình lịch sử - tự nhiên và xu hướng vận động của loài người tất yếu sẽ dẫn đến xã hội cộng sản chủ nghĩa, trong đó, giai đoạn đầu là xã hội xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình vận động đó, xét một cách tổng thể, xã hội phát triển sau bao giờ cũng cũng kế thừa những giá trị tiến bộ và tiến bộ hơn xã hội trước. Điều này cũng được Tổng Bí thư đề cập khi nhắc tới một số thành tựu, giá trị văn minh của nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản, mà trong quá trình phát triển, xây dựng xã hội mới, chúng ta cần phải tiếp thu chọn lọc, nếu không, có thể rơi vào chủ nghĩa hư vô, phủ định sạch trơn; mặt khác, cần kiên quyết bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa, những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa.

Đồng thời, Tổng Bí thư khẳng định, xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng không chỉ tiến bộ hơn các xã hội đã có trong lịch sử, mà còn là một xã hội nhân văn, khi những gì tốt đẹp nhất là dành cho toàn thể nhân dân, chứ không phải chỉ dành cho một nhóm người đặc quyền, đặc lợi như xã hội tư bản. Đây là sự khác nhau về bản chất giữa xã hội xã hội chủ nghĩa và xã hội tư bản nói riêng, các (kiểu, loại) xã hội đã tồn tại trong lịch sử nói chung.

Thứ hai, cơ sở nền tảng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam chính là, để hướng tới xây dựng xã hội có các giá trị tiến bộ, nhân văn, cần dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người. Luận điểm của Tổng Bí thư nhấn mạnh vai trò của lợi ích với tư cách nguồn gốc và động lực của sự phát triển xã hội. Song, ở đây không phải là lợi ích riêng của một nhóm người nào trong xã hội, mà là lợi ích chung của xã hội. Lịch sử đã chứng minh, nếu xã hội phát triển chỉ vì lợi ích riêng của một nhóm người nào đó thì tất yếu dẫn đến những mâu thuẫn xã hội, bất công và thậm chí là sự sụp đổ của xã hội đó. Xã hội là tổng thể những cá nhân riêng lẻ và mỗi người cần được tôn trọng như nhau, không thể nhân danh lợi ích chung mà bỏ qua lợi ích riêng; ngược lại, lợi ích của mỗi cá nhân là chính đáng, nhưng không thể là lợi ích vô độ, gây ảnh hưởng đến cá nhân khác và xã hội. “Lợi ích chính đáng” là lợi ích mà sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người. Việc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cần giải quyết biện chứng, hài hòa các mối quan hệ lợi ích trên, tránh cực đoan hay dân túy.

GS, TS. Đinh Xuân Dũng: Về văn hóa, bài viết của Tổng Bí thư tổng kết, khái quát một cách cô đọng và căn cốt những quan điểm cơ bản của Đảng ta về văn hóa trong chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Có thể nêu tổng quát một số nội dung quan trọng sau:

Văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một thành tố hữu cơ và giữ vị trí quan trọng trong nội hàm của chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của Đảng ta. Từ đó có thể xác định rằng sẽ không có chủ nghĩa xã hội đích thực (hiện thực) nếu không xây dựng được nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Để phát huy vai trò của văn hóa trong chủ nghĩa xã hội, trong xây dựng và phát triển đất nước bền vững, cần phải làm cho văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, phát huy tối đa văn hóa với tư cách là sức mạnh nội sinh của dân tộc, của đất nước và trở thành động lực của sự phát triển - ba vai trò đó gắn kết chặt chẽ với nhau, tạo nên sức mạnh tổng hợp, vững chắc của dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Gắn chặt vai trò của văn hóa với nhiệm vụ xây dựng con người. Xây dựng con người để phát triển văn hóa, phát triển văn hóa vì mục tiêu cao nhất là nuôi dưỡng, xây dựng các giá trị văn hóa trong nhân cách con người. Phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội. Xử lý biện chứng các mối quan hệ trên là một yêu cầu và định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Xây dựng các giá trị căn cốt của văn hóa trong chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam gồm: Phẩm chất tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và sự hòa quyện giữa hai phẩm chất đó tạo nên giá trị tổng quát của văn hóa Việt Nam; chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò nòng cốt, chủ đạo trong nền văn hóa Việt Nam; nền văn hóa mang các giá trị tiến bộ, nhân văn; nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; nền văn hóa biết tiếp thu có chọn lọc những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại.

Kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam _Ảnh: Tỉnh đoàn Quảng Ninh

Chúng ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng con người và phát triển văn hóa là một quá trình đấu tranh rất cam go, gian khổ, nên cần kết hợp giữa “xây” - “chống” và giải quyết biện chứng quan hệ này; nhận diện và xử lý cuộc đấu tranh giữa giá trị và phản giá trị; cần có tầm nhìn mới, bản lĩnh mới và sáng tạo mới.

TS. Nguyễn Hữu Dũng: Về thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội thể hiện trong bài viết của Tổng Bí thư, theo tôi, đây là kết quả của sự tổng kết sâu sắc lý luận và thực tiễn 35 năm đổi mới, khẳng định chủ trương, quan điểm nhất quán và xuyên suốt của Đảng về giải quyết mối quan hệ gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội trong chính sách phát triển quốc gia, phù hợp với từng giai đoạn phát triển đất nước, theo nguyên tắc “bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội”. Bởi vì, ngay từ Đại hội VI của Đảng, sau đó tiếp tục được kế thừa, phát triển trong các kỳ đại hội của Đảng sau này, đều chỉ rõ mối quan hệ biện chứng này, đó là: “Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế”, do đó phải bảo đảm “sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội”. Đó là vấn đề rất cơ bản phải được thể hiện và thực hiện trong từng bước đi và trong từng chính sách phát triển để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Thế giới ngày nay đang hướng tới phát triển bền vững. Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững với 17 mục tiêu nhằm kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội, công bằng và tiến bộ, bảo vệ tài nguyên, môi trường; coi con người là trung tâm của sự phát triển bền vững. Chiến lược tăng trưởng hướng tới chất lượng cao của APEC (năm 2010) cũng nhằm bảo đảm “tăng trưởng cân bằng, hài hòa, bao trùm, an toàn và trên cơ sở sáng tạo”. Như vậy, việc “thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước đi, từng chính sách phát triển” ở Việt Nam chính là sự tiếp cận ở tầm chiến lược phù hợp với xu hướng tiến bộ chung của sự phát triển bền vững và tăng trưởng hướng tới chất lượng cao, tăng trưởng bao trùm của cộng đồng quốc tế trong quá trình toàn cầu hoá và hội nhập.

Để thực hiện mục tiêu trên, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế phát triển bền vững ở nước ta giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2050 theo hướng bảo đảm duy trì về thực chất tăng trưởng kinh tế bền vững đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Thể chế phát triển bền vững được hoàn thiện sẽ là hành lang pháp lý, là công cụ, phương tiện xây dựng thành công một xã hội Việt Nam hoà bình, thịnh vượng, phát triển bao trùm, dân chủ, công bằng, văn minh và bền vững, là điều kiện quan trọng để hiện thực hoá và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

 

NIỀM TIN CỦA DÂN LÀ TÀI SẢN VÔ GIÁ CỦA ĐẢNG, CỦA CHẾ ĐỘ;

XÂY DỰNG VĂN HOÁ DÂN CHỦ, TRỌNG DÂN, TRỌNG PHÁP

Chủ tọa: Bài viết của Tổng Bí thư nêu bật bản chất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng như thế nào, thưa GS, TS. Hoàng Chí Bảo?

GS, TS. Hoàng Chí Bảo: Trong lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, vấn đề dân chủ và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có vị trí nổi bật, có tầm quan trọng đặc biệt.

Trải qua chặng đường 35 năm, công cuộc đổi mới ở nước ta thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, trong đó có thành tựu của dân chủ và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp đổi mới ngay từ đầu đã gắn liền với dân chủ hóa toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội, là xung lực mạnh mẽ thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng văn hóa và con người, đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng thể chế dân chủ pháp quyền để bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Dân chủ là mục tiêu, động lực của đổi mới, mục tiêu và đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Lý luận về chủ nghĩa xã hội mà hạt nhân là lý luận dân chủ được Đảng và nhân dân ta không ngừng tìm tòi, phát triển trên quan điểm đổi mới, sáng tạo, được thể hiện trong Cương lĩnh của Đảng (năm 1991, 2011), trong Hiến pháp, đặc biệt Hiến pháp 2013 và qua các văn kiện đại hội của Đảng, nhất là Văn kiện Đại hội XIII gần đây. Việc phát hiện quan hệ giữa thực hành dân chủ với tăng cường kỷ cương, bảo đảm pháp chế xã hội là một phát hiện quan trọng, bổ sung và hoàn thiện các mối quan hệ lớn, thể hiện quy luật của đổi mới, của chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Các tác phẩm lý luận của Tổng Bí thư gần đây dành sự quan tâm đặc biệt tới dân chủ và vai trò làm chủ của nhân dân, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, làm tất cả vì hạnh phúc của nhân dân. Lấy sự hài lòng của người dân làm thước đo năng lực lãnh đạo và quản lý, năng lực, phẩm chất và uy tín của cán bộ đảng viên, niềm tin của dân là tài sản vô giá của Đảng, của chế độ, phải không ngừng gìn giữ, bồi đắp và phát huy.

Đồng bào dân tộc Lô Lô ở xóm Khuổi Khon, xã Kim Cúc, huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng nghe phổ biến về pháp luật bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 _Ảnh: TTXVN

Muốn thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, nhân dân hạnh phúc, dân tộc cường thịnh và trường tồn thì phải phát huy vai trò chủ thể của nhân dân, giải phóng mọi tiềm năng sáng tạo ở trong dân, thực hiện tốt Quy chế Dân chủ cơ sở, bảo đảm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát và dân thụ hưởng”.

Để làm rõ hơn bản chất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được từng bước xây dựng và hoàn thiện ở Việt Nam, trong điều kiện và hoàn cảnh của nước ta, cần nhấn mạnh thêm những điểm sau đây:

Thứ nhất, điểm nổi bật và quan trọng nhất, bao trùm toàn bộ nội dung, hình thức, phương thức xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và những điều kiện, giải pháp xây dựng dân chủ ở nước ta là “Dân là chủ và dân làm chủ”. Đó là vị thế người chủ và năng lực thực hành dân chủ của người dân. Đây là tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là quan niệm khoa học ở tầm kinh điển, kết tinh giá trị truyền thống dân tộc và tinh thần thời đại về vai trò quần chúng nhân dân trong lịch sử mà chủ nghĩa Mác - Lê-nin đề cập đến. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh: “Dân là gốc của nước”. “Bao nhiêu lợi ích là thuộc về dân. Bao nhiêu quyền hành cũng là của dân. Quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Dân xây dựng đoàn thể từ xã tới Trung ương. Dân tổ chức chính quyền từ Trung ương tới xã... Dân là chủ thì Chính phủ, công chức là đầy tớ của dân. Dân đã có quyền làm chủ thì cũng có nghĩa vụ của người chủ.

Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là trình độ phát triển hiện đại trong lịch sử tiến hóa của các nền dân chủ. Là dân chủ của số đông, của đa số nhân dân, là thành quả vĩ đại của giải phóng, là động lực mãnh liệt của phát triển, là thước đo nhân văn của lịch sử văn hóa nhân loại.

Thứ hai, để bảo đảm bản chất đó của dân chủ xã hội chủ nghĩa, phải làm cho nền dân chủ được xây dựng thấm nhuần đầy đủ và sâu sắc nhất hai đặc trưng: Tính pháp lý và tính nhân văn. Đây là sự phát triển mới về chất các thuộc tính này so với các nền dân chủ trong lịch sử, là sự kế thừa có chọn lọc và phê phán dân chủ tư sản, đồng thời phủ định biện chứng dân chủ tư sản.

Thứ ba, dân chủ xã hội chủ nghĩa bảo đảm lợi ích và quyền làm chủ thực chất của nhân dân lao động. Nó quy định nội dung toàn diện của dân chủ: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, trong các quan hệ: cá nhân gắn với cộng đồng, lợi ích gắn với trách nhiệm, quyền hạn gắn với nghĩa vụ, bổn phận.

Thứ tư, thiết chế quan trọng nhất để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Thể chế quan trọng nhất là pháp luật. Lịch sử Nhà nước gắn liền với lịch sử lập hiến, lập pháp và giám sát để kiểm soát quyền lực. Dân là chủ thể gốc của mọi quyền lực, dân ủy quyền và kiểm soát việc thực hiện quyền mà nhân dân trao cho Nhà nước để phục vụ nhân dân và xã hội.

Thứ năm, dân chủ xã hội chủ nghĩa có sức mạnh bảo đảm từ kinh tế, văn hóa, trong đó có đạo đức của công chức và đạo đức công dân, đạo đức xã hội (kinh tế thị trường hiện đại là động lực phát triển rất quan trọng của dân chủ).

Thứ sáu, dân chủ không chỉ ở trong chính thể, thể chế mà còn trực tiếp ở cơ sở. Quy chế, Pháp lệnh Dân chủ cơ sở ở Việt Nam thực sự là đạo luật dân chủ, một nét đặc sắc của dân chủ ở Việt Nam.

Thứ bảy, dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là sự kết hợp tính phổ biến và tính đặc thù: (1) Do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, cầm quyền. Hệ thống chính trị nhất nguyên, một đảng cầm quyền. Hiến định và chế định trong Hiến pháp, luật pháp. Cơ chế bảo hiến và phòng ngừa vi hiến; (2) Dân chủ đại diện, một viện (Quốc hội), không lưỡng viện, do không đa đảng; (3) Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: Quyền lực tập trung, thống nhất, phân công, phân quyền, phối hợp, không tam quyền phân lập; (4) Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời áp dụng hiệp thương dân chủ trong Mặt trận Tổ quốc, làm phong phú phương thức thực hiện dân chủ ở Việt Nam. Ở cơ sở, chú trọng tự quản bằng văn hóa hương ước truyền thống.

Thứ tám, để xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa phải kết hợp dân chủ với đoàn kết và đồng thuận. Nổi bật vai trò dân vận và chất lượng đạo đức công chức, kỷ luật công vụ, thực hành văn hóa trọng dân, trọng pháp.

Thứ chín, nhân dân chủ động xây dựng nền dân chủ, thực hành dân chủ, trong đó chủ động tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước và đoàn thể nhân dân. Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.

Thứ mười, các điều kiện bảo đảm phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa: Chăm lo dân sinh, nâng cao dân trí, bảo đảm dân quyền để thực hiện và phát huy dân chủ.

Đó chính là hiện thực hóa giá trị pháp lý và giá trị nhân văn của dân chủ./.

Tác phẩm đoạt giải khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất