Loạt 3 bài "Quyết liệt thực hiện các giải pháp thu hồi tài sản tham nhũng" của tác giả Tiểu Phương, Báo Nhân Dân đã đoạt Giải C - Giải báo chí toàn quốc về xây dựng Đảng (Giải Búa liềm vàng) lần thứ VII - năm 2022. Tạp chí Xây dựng Đảng trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Kết quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng giai đoạn 2012-2022 cho thấy, cùng với việc tập trung chỉ đạo xử lý nghiêm các sai phạm, công tác thu hồi tài sản tham nhũng có chuyển biến rõ nét. Việc kê biên, thu giữ tài sản trong nhiều vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng đạt khá cao, lượng tài sản tham nhũng được thu hồi tăng rõ rệt.
Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII thảo luận, cho ý kiến về Đề án thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. (Ảnh minh họa: Đăng Khoa)
Tuy nhiên, so với yêu cầu, tỷ lệ tài sản được thu hồi vẫn còn thấp. Trong khi số vụ việc, vụ án tham nhũng, kinh tế tăng, Trung ương xác định cần các giải pháp mạnh mẽ, quyết liệt hơn nhằm thu hồi tối đa tài sản tham nhũng. Ðây cũng là một nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, lâu dài trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Bài 1: Nâng cao hiệu quả, tạo chuyển biến mạnh mẽ
Các nghị quyết, chỉ thị của Ðảng về công tác phòng, chống tham nhũng đã xác định nhiệm vụ thu hồi tối đa tài sản do tham nhũng mà có, đồng thời xử lý nghiêm minh những cán bộ không tích cực hoặc cản trở hoạt động thu hồi tài sản tham nhũng. Mới đây, Chỉ thị số 04-CT/TW, ngày 2/6/2021 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế, khẳng định quan điểm nhất quán và mức độ ngày càng quyết liệt trong chỉ đạo của Ðảng, Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong công tác thu hồi tài sản tham nhũng.
Nhiệm vụ cấp thiết
Trong các kết luận của Ủy ban Kiểm tra Trung ương về xem xét kết quả kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm, cụm từ “những vi phạm nêu trên đã gây hậu quả nghiêm trọng (rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng), thiệt hại lớn tiền và tài sản của Nhà nước, gây bức xúc trong xã hội, ảnh hưởng xấu uy tín của cấp ủy, chính quyền…” xuất hiện ngày càng thường xuyên. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử hàng loạt vụ án tham nhũng, kinh tế lớn, đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, có những vụ tồn đọng, kéo dài từ nhiều năm trước như việc Mobifone mua 95% cổ phần của AVG; cổ phần hóa Cảng Quy Nhơn; các dự án, gói thầu liên quan Ðinh Ngọc Hệ; mở rộng Nhà máy Gang thép Thái Nguyên giai đoạn II; đầu tư cải tạo, mở rộng Nhà máy phân đạm Hà Bắc; Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2,... chỉ ra những con số khổng lồ về tài sản nhà nước bị thất thoát, chiếm đoạt.
Qua một số vụ án tương tự cho thấy, có sự “bắt tay ngầm”, bao che thậm chí tiếp tay, giữa một số cán bộ, đảng viên có chức, có quyền, người đứng đầu trong hệ thống cơ quan, doanh nghiệp nhà nước, với các tổ chức, cá nhân, bằng nhiều thủ đoạn tinh vi nhằm thu lợi bất chính. Hệ quả nguy hại là số lượng lớn tài sản nhà nước bị thất thoát, cán bộ, đảng viên bị thi hành kỷ luật, bị truy cứu trách nhiệm hình sự, làm tổn hại uy tín hệ thống cơ quan công quyền và suy giảm niềm tin của nhân dân.
Ðiển hình như các vụ án liên quan Nguyễn Ðức Kiên; Dương Chí Dũng; Huỳnh Thị Huyền Như; Giang Kim Ðạt; Phạm Công Danh; Hà Văn Thắm; Châu Thị Thu Nga; Trịnh Xuân Thanh; Hứa Thị Phấn…; và mới đây là các vụ xảy ra tại Công ty Việt Á, Cục Lãnh sự (Bộ Ngoại giao); Tập đoàn FLC, Tập đoàn Tân Hoàng Minh…
Việc thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng (nay là Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực), trực thuộc Bộ Chính trị, đáp ứng nhiệm vụ cấp thiết trong tình hình mới. Với quyết tâm tạo bước chuyển mạnh mẽ, rõ rệt hơn nữa trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Ban Chỉ đạo do Tổng Bí thư làm Trưởng ban, các thành viên là những cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở các cơ quan Trung ương của Ðảng và Nhà nước, chính thức hoạt động từ ngày 1/2/2013, đã thể hiện vai trò “tổng chỉ huy”, là “nhạc trưởng”, chỉ đạo công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trên phạm vi cả nước.
Dưới sự chỉ đạo của Ban Chỉ đạo, công tác phòng, chống tham nhũng được quan tâm, chỉ đạo quyết liệt, bài bản, toàn diện và ngày càng đi vào chiều sâu. Trước đây, việc điều tra, xử lý tham nhũng chủ yếu tập trung phát hiện, xử lý tội phạm, vấn đề thu hồi tài sản tham nhũng ít được quan tâm, kết quả thu hồi tài sản tham nhũng đạt rất thấp, tài sản tham nhũng trong một số vụ án bị tẩu tán, không kiểm soát và thu hồi được. Ðến giai đoạn hiện nay, cùng với việc tập trung chỉ đạo xử lý nghiêm các sai phạm, công tác thu hồi tài sản tham nhũng đã có bước chuyển quan trọng.
Việc kê biên, thu giữ tài sản trong nhiều vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng đạt khá cao, nhất là các vụ việc, vụ án diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo. Tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế tăng lên rõ rệt. Năm 2013, tỷ lệ này chỉ đạt dưới 10%, trong giai đoạn 2012-2022, bình quân đạt tỷ lệ 34,7%.
Theo Kiểm toán Nhà nước và Thanh tra Chính phủ, tỷ lệ tài sản được thu hồi trên tổng số tài sản mà các ngành đã kiến nghị thu hồi đạt khá cao; đã xử lý và kiến nghị xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân có liên quan, thu hồi nhiều tài sản cho Nhà nước. Từ năm 2012 đến nay, qua công tác thanh tra, kiểm toán, đã xử lý, thu hồi được hơn 975 nghìn tỷ đồng, gần 76 nghìn ha đất; xử lý trách nhiệm gần 44.700 tập thể, cá nhân; chuyển cơ quan điều tra, xử lý gần 1.200 vụ việc có dấu hiệu phạm tội.
Công tác truy tìm, truy thu, áp dụng các biện pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản cũng được các cơ quan điều tra, kiểm sát, tòa án, thi hành án triển khai để nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản. Ngay từ lúc khởi tố vụ án, cơ quan tố tụng đã tăng cường xác minh, áp dụng các biện pháp thu giữ, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản kịp thời ngăn chặn không để đối tượng chuyển nhượng, tẩu tán, che giấu, hợp pháp hóa tài sản chiếm đoạt. Ðiển hình là vụ án Hứa Thị Phấn và đồng phạm, cơ quan tố tụng đã thực hiện kê biên và phong tỏa khoảng 200 bất động sản; hơn 24,3 triệu cổ phần, cổ phiếu các loại và hơn 30 tỷ đồng tiền mặt, tổng trị giá ước tính hơn 10 nghìn tỷ đồng để bảo đảm thi hành án; vụ án Phạm Công Danh cùng đồng phạm xảy ra tại Ngân hàng TMCP Xây dựng Việt Nam (giai đoạn 1), thu hồi hơn 6.000 tỷ đồng…
Có vụ án tài sản của Nhà nước bị thất thoát, chiếm đoạt được thu hồi ngay từ giai đoạn trước khi khởi tố vụ án, điển hình như vụ án xảy ra tại AVG, cơ quan chức năng đã thu hồi 8.843 tỷ đồng. Nhiều vụ án có số tiền bị chiếm đoạt, thiệt hại lớn đã được thu hồi toàn bộ ngay trong giai đoạn điều tra vụ án…
Theo Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp, đối với các vụ án kinh tế tham nhũng thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng theo dõi, chỉ đạo, đến hết năm 2020, Bộ Tư pháp đã tiếp nhận 80 vụ việc theo dõi, đôn đốc thu hồi tài sản. Bộ Tư pháp chỉ đạo Tổng cục Thi hành án dân sự và các cơ quan thi hành án dân sự địa phương tích cực thu hồi tài sản đối với các vụ việc đang xử lý, nhất là các vụ việc phức tạp, kéo dài. Riêng năm 2020, đã thi hành được số tiền hơn 14.000 tỷ đồng; bằng 73,6% tổng số tiền đã thi hành xong trong giai đoạn 2013-2019.
Tăng cường trách nhiệm của cấp ủy và người đứng đầu
Ðánh giá kết quả nổi bật qua 10 năm công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, tại Hội nghị toàn quốc mới đây, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lưu ý, bên cạnh những kết quả đạt được, phải thẳng thắn thừa nhận rằng công tác phòng, chống tham nhũng vẫn còn những hạn chế. Ðó là: Một số bộ, ban, ngành, địa phương chưa có quyết tâm cao, chưa có sự chuyển biến mạnh. Việc phát hiện, xử lý tham nhũng vẫn còn hạn chế; tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng, thất thoát còn thấp; việc tự kiểm tra, tự phát hiện và xử lý tham nhũng trong nội bộ, cơ quan, đơn vị còn là khâu yếu…
Nâng cao hơn nữa quyết tâm và hành động, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế, tại Chỉ thị 04, Ban Bí thư yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu nâng cao nhận thức, trách nhiệm đối với công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế; xác định đây là nhiệm vụ quan trọng, xuyên suốt trong quá trình thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng.
Trong đó, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, địa phương, cơ quan, đơn vị phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và chịu trách nhiệm về công tác thu hồi tài sản tham nhũng tại cơ quan, đơn vị, địa phương mình; rà soát, sửa đổi, bổ sung, xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế, nhất là các quy định về trình tự, thủ tục thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt…
Song song quy định về trách nhiệm thực hiện, Trung ương đồng thời ban hành quy định về chế tài xử lý kỷ luật khi tổ chức đảng, đảng viên, nhất là người đứng đầu tham nhũng, để xảy ra tham nhũng và không thực hiện trách nhiệm khắc phục, thu hồi tài sản tham nhũng. Theo Quy định số 69-QÐ/TW ngày 6/7/2022 của Bộ Chính trị về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm, đảng viên vi phạm nếu chủ động chấm dứt hành vi vi phạm, tích cực tham gia ngăn chặn hành vi vi phạm; tự giác nộp tài sản tham nhũng, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do mình gây ra sẽ được coi là tình tiết giảm nhẹ khi xem xét kỷ luật.
Ngược lại, đối với đảng viên vi phạm gây thiệt hại về vật chất phải bồi hoàn nhưng không bồi hoàn, không khắc phục hậu quả hoặc khắc phục không đúng yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền, không tự giác nộp lại tiền, tài sản do vi phạm mà có, sẽ được coi là tình tiết tăng nặng mức kỷ luật.
So với các quy định trước đó, Quy định 69 bổ sung nhiều điểm mới cho phù hợp với các quy định của Ðảng mới được ban hành trong thời gian qua, đáp ứng những vấn đề phát sinh trong thực tiễn. Về vi phạm quy định phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, Quy định 69 nêu rõ các mức xử lý kỷ luật, cụ thể, bằng hình thức cảnh cáo hoặc cách chức (nếu có chức vụ), đối với một trong các trường hợp: Dùng công quỹ của Nhà nước, tập thể hoặc tiền, tài sản của tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân đóng góp, tài trợ để giao dịch, biếu xén, hối lộ hoặc sử dụng trái quy định; kê khai tài sản, giải trình biến động tài sản, nguồn gốc tài sản, thu nhập không trung thực; nhờ người khác đứng tên hoặc đứng tên hộ người khác mua bất động sản, tài sản có giá trị nhằm trục lợi, che giấu kê khai tài sản, thu nhập…
Vi phạm một trong các trường hợp sau thì kỷ luật bằng hình thức khai trừ: Mở tài khoản chuyển tiền, tài sản ra nước ngoài, mua, bán tài sản ở nước ngoài trái quy định; tổ chức, tham gia hoạt động rửa tiền dưới mọi hình thức; chủ trì, tham mưu, đề xuất, tham gia ban hành chế độ, chính sách, quy trình, thủ tục trái quy định tạo lợi ích nhóm hoặc lợi ích cục bộ nhằm mục đích trục lợi; tẩu tán tài sản nhằm trốn tránh việc kê khai tài sản, thu nhập; đối phó, cản trở việc kiểm tra, giám sát, xác minh tài sản, thu nhập; không chỉ đạo và tổ chức thu hồi hoặc cản trở hoạt động thu hồi tài sản tham nhũng, tiêu cực.
Thực hiện chủ trương được thống nhất tại Hội nghị Trung ương 5, khóa XIII mới đây, ở các địa phương, Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã được thành lập và nhanh chóng đi vào hoạt động. Ban Chỉ đạo cấp tỉnh do các đồng chí bí thư tỉnh ủy, bí thư thành ủy trực thuộc Trung ương làm trưởng ban, chịu trách nhiệm trước ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy và Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong việc chỉ đạo, phối hợp, đôn đốc, kiểm tra, giám sát công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trên địa bàn.
Hoạt động của Ban Chỉ đạo cấp tỉnh góp phần tham mưu, đề xuất thực hiện có hiệu quả các chương trình, kế hoạch công tác, phối hợp xử lý nhiều vụ án, vụ việc tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội đặc biệt quan tâm, liên quan công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở địa phương, lan tỏa mạnh mẽ quyết tâm và hành động phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng.
Giai đoạn 2012-2022, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đã đưa vào diện theo dõi, chỉ đạo gần 1.000 vụ án, vụ việc ở 3 cấp độ; trong đó trực tiếp theo dõi, chỉ đạo 313 vụ án, vụ việc tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm. Ðã đưa ra xét xử sơ thẩm 120 vụ án, 1.083 bị cáo, trong đó có 37 cán bộ diện Trung ương quản lý bị xử lý hình sự.
Giai đoạn 2016-2021, quá trình xử lý các vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương theo dõi, chỉ đạo, đã thu giữ, tạm giữ, kê biên, phong tỏa, ngăn chặn giao dịch tài sản trị giá hơn 50 nghìn tỷ đồng, đạt tỷ lệ 41,3%.
|
Bài 2: Thống nhất quyết tâm và hành động đồng bộ trong thu hồi tài sản tham nhũng
Quán triệt quan điểm của Đảng, xác định nhiệm vụ thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án kinh tế, tham nhũng quan trọng ngang bằng với nhiệm vụ phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử người phạm tội, các cơ quan, ban, ngành ở Trung ương và địa phương vào cuộc quyết liệt để tăng cường phát hiện, xử lý nhiều vụ án, vụ việc về tham nhũng, kinh tế lớn và truy tìm, kê biên, xử lý tài sản. Các giải pháp có tính chiến lược, lâu dài vừa cụ thể, bảo đảm khắc phục hạn chế, đồng thời tạo đột phá, tạo bước chuyển mạnh mẽ trong thu hồi tài sản tham nhũng.
Với việc nộp hàng chục tỷ đồng để khắc phục hậu quả, ông Nguyễn Đức Chung cùng các đồng phạm đã được Tòa phúc thẩm giảm mức án tù phải chấp hành.
Dù đạt những kết quả tích cực, nổi bật, song công tác thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế vẫn còn nhiều hạn chế, vướng mắc. Tỷ lệ thu hồi tài sản trong phần lớn các vụ án tham nhũng có tăng nhưng còn thấp so với số lượng phải thu hồi. Các cơ quan chức năng đã tập trung tiến hành đồng bộ việc đánh giá chính xác những hạn chế, vướng mắc để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, pháp luật tạo điều kiện nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản nhà nước bị thất thoát, chiếm đoạt.
Cụ thể hóa chủ trương của Đảng
Theo Ban Nội chính Trung ương, kết quả kiểm tra công tác thu hồi tài sản tham nhũng tại một số đảng ủy, ban cán sự đảng và tỉnh ủy, thành ủy, đã chỉ ra những nguyên nhân hạn chế, vướng mắc. Trong đó, đối tượng phạm tội tham nhũng, kinh tế là loại tội phạm có chủ thể đặc biệt, là những người có chức vụ, quyền hạn, có trình độ học vấn, am hiểu pháp luật, có nhiều mối quan hệ cho nên có khả năng xóa dấu vết, tiêu hủy chứng cứ, tẩu tán tài sản. Các hành vi tham nhũng thường chỉ bị phát hiện sau một thời gian dài, khiến việc thu thập chứng cứ trong điều tra vụ án gặp khó khăn, phức tạp, đặc biệt là việc xác định tài sản có nguồn gốc tham nhũng.
Các quy định của pháp luật về thu hồi tài sản tham nhũng còn mang tính nguyên tắc, thiếu các quy định riêng về thẩm quyền, trách nhiệm, trình tự, thủ tục về thu hồi tài sản tham nhũng; chưa xác định rõ trách nhiệm phối hợp cụ thể của các cơ quan quản lý nhà nước trong các lĩnh vực có liên quan (như ngân hàng, tài chính, đất đai, xây dựng, giao thông...) với các cơ quan chức năng trong xử lý tài sản tham nhũng. Cơ chế quản lý tài sản ở nước ta hiện nay còn thiếu chặt chẽ, thiếu minh bạch, các giao dịch kinh tế, dân sự vẫn chủ yếu bằng tiền mặt. Một số biện pháp phòng ngừa tham nhũng còn mang tính hình thức, kê khai tài sản của cán bộ, công chức chưa được kiểm tra, xác minh, kiểm chứng cho nên khó khăn trong việc xác định tài sản tham nhũng và tài sản được hình thành từ tham nhũng. Việc thu hồi tài sản tham nhũng, kinh tế có yếu tố nước ngoài gặp nhiều khó khăn; cơ sở pháp lý cho việc hợp tác quốc tế chưa đầy đủ…
Để khắc phục những hạn chế, vướng mắc, nhiều quy định mới về thu hồi tài sản tham nhũng đã được thể chế hóa theo chủ trương, đường lối của Đảng, tạo cơ sở pháp lý quan trọng. Trong đó, “chú trọng tới các chế tài phạt tiền nhằm tăng khả năng thu hồi tài sản tham nhũng” được nêu tại Nghị quyết Trung ương 3, khóa X đã được thể hiện rõ qua lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự năm 2015. Điều 40 của Bộ luật này quy định, không thi hành án tử hình đối với người bị kết án nếu: “Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn”. Quy định này vừa thể hiện sự nhân đạo, khoan hồng của Đảng, Nhà nước đối với người phạm tội biết ăn năn hối lỗi trả lại tài sản tham nhũng, vừa giúp công tác thu hồi tài sản tham nhũng đạt được những kết quả quan trọng.
Ngoài ra, các luật liên quan phòng, chống tham nhũng, các văn bản hướng dẫn thi hành đã có nhiều quy định điều chỉnh trực tiếp đến thu hồi tài sản tham nhũng. Trong đó, Luật Phòng, chống tham nhũng quy định, tài sản tham nhũng phải được thu hồi, tịch thu; người có hành vi tham nhũng gây thiệt hại thì phải bồi thường, bồi hoàn theo quy định của pháp luật; cơ quan, tổ chức có thẩm quyền phải áp dụng các biện pháp cần thiết để thu hồi, tịch thu tài sản tham nhũng; tài sản tham nhũng phải được trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc sung quỹ nhà nước; người đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát hiện hành vi đưa hối lộ thì được trả lại tài sản đã dùng để hối lộ …
Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các cơ quan tố tụng đã chú trọng xác minh, truy nguyên tài sản, áp dụng các biện pháp tạm giữ, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản của các đối tượng phạm tội; động viên, khuyến khích người phạm tội tự nguyện giao nộp tài sản tham nhũng. Mới đây, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã tiến hành phiên xét xử phúc thẩm vụ án lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ xảy ra tại Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội và các đơn vị liên quan.
Với việc nộp hàng chục tỷ đồng để khắc phục hậu quả, ông Nguyễn Đức Chung cùng các đồng phạm đã được Tòa phúc thẩm giảm mức án tù phải chấp hành. Theo đó, bị cáo Nguyễn Đức Chung được tuyên giảm 3 năm so bản án phiên sơ thẩm. Hay trường hợp bị cáo Nguyễn Bắc Son tại phiên tòa phúc thẩm đã xin khai những tình tiết mới, vận động gia đình nộp lại tài sản tham nhũng để hưởng khoan hồng theo luật định.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật
Cụ thể hóa chủ trương của Đảng về công tác này, Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ đã tập trung lãnh đạo Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành và cơ quan chức năng nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự; pháp luật về hình sự, dân sự, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, phá sản, giá, giám định, định giá; pháp luật liên quan đến tín dụng, ngân hàng, xử lý nợ xấu, đăng ký tài sản, đấu giá tài sản công.., bảo đảm thống nhất, đồng bộ, tránh chồng chéo để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án nói chung, thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế nói riêng.
Về công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế, theo Bộ Tư pháp, Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014, đã quy định trực tiếp nhiệm vụ của cơ quan thi hành án dân sự trong thu hồi tài sản cho Nhà nước để kịp thời giải quyết những vướng mắc trong việc thi hành các vụ án tham nhũng, kinh tế đặc biệt nghiêm trọng.
Cụ thể hóa đường lối, chính sách của Đảng về phát hiện, xử lý các vụ án tham nhũng sát với thực tiễn, Bộ Tư pháp đã phối hợp các bộ, ngành trình Quốc hội ban hành nhiều văn bản quan trọng, trong đó Bộ luật Hình sự năm 2015 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 theo hướng mở rộng nội hàm và cấu thành tội phạm tham nhũng; bổ sung hình phạt, các biện pháp tư pháp và các quy định về giảm hình phạt; giảm nhẹ hình phạt trong trường hợp chủ động khắc phục hậu quả tham nhũng; không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thời hiệu thi hành bản án đối với các tội tham ô tài sản và nhận hối lộ thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng; quy định các biện pháp ngăn chặn tẩu tán tài sản trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, hợp tác quốc tế nhằm thu hồi tối đa tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát.
Trong công tác bổ trợ tư pháp, Bộ Tư pháp đã tham mưu Chính phủ, Quốc hội các văn bản về tăng cường công tác quản lý nhà nước trong hoạt động bán đấu giá tài sản; góp phần bảo đảm minh bạch, hạn chế tình trạng thông đồng, dìm giá, trục lợi, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động đấu giá nói chung và đấu giá tài sản thi hành án nói riêng; tham mưu gỡ khó trong hoạt động giám định tư pháp, đặc biệt là giám định thiệt hại trong các vụ án tham nhũng, kinh tế lớn.
Nhằm tăng khả năng thu hồi tài sản tham nhũng, Chỉ thị số 50-CT/TW, ngày 7/12/2015 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng nêu rõ, trong xử lý tham nhũng phải xác minh rõ, chính xác tài sản của người có hành vi tham nhũng; áp dụng kịp thời các biện pháp thu hồi tối đa tài sản do tham nhũng mà có. Theo Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Nguyễn Trí Tuệ, các vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp thường liên quan nhiều nhóm tội danh, các hành vi phạm tội của các đối tượng đan xen, không phân định rõ về vai trò, vị trí cụ thể theo đặc trưng của tội phạm có tổ chức cho nên việc đánh giá chứng cứ, xác định tội danh, đồng phạm là hết sức quan trọng.
Cùng với việc quyết định về trách nhiệm hình sự thì quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng và các quyết định khác cũng phải hết sức lưu ý; phải xác định đầy đủ, rõ ràng tài sản bị chiếm đoạt và mục tiêu quan trọng nhất là phải thu hồi tối đa tài sản cho Nhà nước. Bảo đảm đúng quy định pháp luật trong việc giải quyết tài sản liên quan đến người thứ ba. Quá trình xét xử, nếu có căn cứ, Hội đồng xét xử kiến nghị khởi tố vụ án để tránh bỏ lọt tội phạm, đồng thời kiến nghị các cơ quan nhà nước và các tổ chức có thẩm quyền khắc phục sơ hở, thiếu sót.
Xác định thiệt hại và thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát, cũng theo đồng chí Nguyễn Trí Tuệ, là mối quan tâm hàng đầu, đặc biệt quan trọng trong các vụ án tham nhũng, kinh tế vì đây là căn cứ cơ bản nhất để xác định trách nhiệm hình sự, áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với các bị can/bị cáo và biện pháp để thu hồi tài sản tham nhũng.
Giá trị thiệt hại, hậu quả của tội phạm có ý nghĩa quan trọng và mang tính bắt buộc để xác định hành vi vi phạm có phải là tội phạm hay không đối với những tội có quy định yếu tố thiệt hại, hậu quả nghiêm trọng là một trong những dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm (gồm các tội “lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”; “lạm quyền trong khi thi hành công vụ”, “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”); là căn cứ để xác định khung hình phạt; đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội khi quyết định hình phạt; xác định trách nhiệm bồi thường và các biện pháp tư pháp (tịch thu, kê biên tài sản trong vụ án hình sự).
Bên cạnh nhiệm vụ đấu tranh, chống tội phạm trong các vụ án tham nhũng, kinh tế, yêu cầu thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt ngày càng được quan tâm. Khối lượng tài sản thu hồi được là một trong những thước đo quan trọng đánh giá hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng. Ngoài những biện pháp vận động, thuyết phục, động viên các đối tượng phạm tội tự nguyện hoặc vận động người thân, gia đình bồi thường, khắc phục hậu quả, các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện các biện pháp điều tra, nghiệp vụ nhằm kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, xác minh làm rõ số tiền, tài sản bị chiếm đoạt được sử dụng, tẩu tán, chuyển hóa; đấu tranh với các đối tượng sử dụng số tiền, tài sản bị chiếm đoạt, khởi tố về tội “rửa tiền” để điều tra, xử lý; làm rõ dòng tiền bắt đầu và kết thúc ở đâu để có biện pháp thu hồi chính xác, kịp thời theo quy định.
Bài 3: Tăng cường phối hợp trong nước và hợp tác quốc tế về thu hồi tài sản tham nhũng
Thực tế công tác tổ chức xác minh, truy tìm, áp dụng các biện pháp thu hồi, xử lý tài sản bảo đảm thi hành án trong các vụ án tham nhũng còn có khó khăn, vướng mắc. Với yêu cầu mạnh mẽ, quyết liệt hơn trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, công tác thu hồi tài sản tham nhũng cần trách nhiệm cao hơn và hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan chức năng, đồng thời thúc đẩy mở rộng hợp tác quốc tế.
Trịnh Xuân Thanh tại tòa.
Kết quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thời gian qua có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, với quyết tâm chính trị cao của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, sự chỉ đạo quyết liệt, trực tiếp của đồng chí Tổng Bí thư, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Công tác phối hợp được triển khai sớm, dưới nhiều hình thức, nhiều cấp độ, một cách hệ thống, bài bản. Sự phối hợp của các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, các cơ quan tố tụng, các bộ, ngành, địa phương có liên quan đã hình thành cơ chế chặt chẽ, nhịp nhàng, đồng bộ. Kịp thời lựa chọn những vụ án, vụ việc đặc biệt nghiêm trọng, dư luận quan tâm đưa vào diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo dõi, chỉ đạo; đồng thời tập trung tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thanh tra, kiểm tra, điều tra, xử lý các vụ án, vụ việc.
Phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa các cơ quan chức năng
Thực tế công tác phòng, chống tham nhũng thời gian qua cũng cho thấy sự phối hợp giữa các lực lượng có chức năng phòng, chống tham nhũng vẫn còn những hạn chế nhất định, ảnh hưởng tiến độ xử lý các vụ án cũng như xử lý tài sản cần thu hồi. Trong một số vụ án, quan điểm giữa các cơ quan tiến hành tố tụng về đánh giá chứng cứ, xác định tội danh, xác định hậu quả thiệt hại chưa thống nhất, phải họp bàn nhiều lần, nhiều cấp dẫn đến kéo dài thời hạn giải quyết vụ án hoặc phải trả hồ sơ điều tra bổ sung nhiều lần. Sự phối hợp giữa cơ quan tố tụng và cơ quan giám định, định giá tài sản có lúc chưa hiệu quả; giữa cơ quan tố tụng và cơ quan thi hành án đôi khi vẫn vướng mắc, chậm chuyển giao hoặc chuyển giao không đầy đủ bản án, hồ sơ, tài liệu liên quan cho nên cơ quan thi hành án thiếu cơ sở thi hành thu hồi tài sản. Việc xác minh và trả lời yêu cầu cung cấp thông tin về tài sản của các cơ quan chức năng; xác định hiện trạng, tình trạng pháp lý về đất đai phục vụ thu hồi tài sản của văn phòng đăng ký đất đai các cấp còn chậm, trả lời chung chung, không đáp ứng yêu cầu, phải đề nghị xác minh tại nhiều cơ quan đơn vị, như đã xảy ra trong vụ án Giang Kim Ðạt, vụ Epco-Minh Phụng...
Theo Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, để giải quyết triệt để, đúng pháp luật các vụ án, vụ việc tham nhũng, ngoài việc tập trung điều tra làm rõ xử lý hành vi phạm tội, phải tập trung làm rõ tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt và áp dụng biện pháp để thu hồi triệt để tài sản cho Nhà nước. Các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán khi phát hiện có dấu hiệu phạm tội cần kịp thời chuyển tài liệu cùng kết luận và kiến nghị khởi tố cho cơ quan điều tra. Các bộ, ngành có chức năng giám định, định giá cần tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, chú trọng xây dựng đội ngũ giám định viên có đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, bảo đảm thực hiện việc giám định, định giá tài sản kịp thời; và thường xuyên phối hợp chặt chẽ với cơ quan điều tra, viện kiểm sát để bảo đảm việc cung cấp, bổ sung tài liệu phục vụ giám định, định giá tài sản đúng yêu cầu.
Tiếp tục chủ động thực hiện cơ chế phối hợp họp liên ngành theo từng cấp độ, từ cấp chuyên viên đến cấp vụ, đến cấp lãnh đạo liên ngành và khi xuất hiện những vụ việc có khó khăn vướng mắc mà lãnh đạo liên ngành chưa thể thống nhất thì phải kịp thời báo cáo Thường trực Ban Chỉ đạo để có sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời.
Chia sẻ những bài học kinh nghiệm trong xử lý dứt điểm các vụ án tham nhũng, kinh tế đặc biệt nghiêm trọng, lãnh đạo Bộ Công an cho rằng, cần có sự phối hợp chặt chẽ, kịp thời, hiệu quả giữa cơ quan điều tra với viện kiểm sát nhân dân, tòa án nhân dân các cấp trong quá trình phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử án tham nhũng, nhất là trong phối hợp giải quyết tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về đánh giá chứng cứ, đường lối xử lý, đôn đốc công tác giám định, định giá tài sản...
Có thể khẳng định, vụ án nào mà sự phối hợp giữa các cơ quan tố tụng và người tiến hành tố tụng được thực hiện ngay từ đầu, vì mục tiêu chung là hướng tới thực hiện đúng các quy định của pháp luật, thì hiệu quả, chất lượng công tác điều tra, truy tố xét xử sẽ cao. Ðối với những vụ án lớn, phức tạp, cần có sự phối hợp chặt chẽ với viện kiểm sát ngay từ giai đoạn điều tra ban đầu, nhằm bảo đảm việc điều tra, bắt giam, giữ đúng pháp luật. Bên cạnh đó, cần chủ động phối hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý nhà nước liên quan, nhất là cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán các cấp kịp thời chuyển cơ quan điều tra các vụ việc có dấu hiệu tội phạm, tránh để đối tượng có thời gian hợp lý hóa nội dung sai phạm, hoàn thiện hồ sơ, cất giấu tài sản, tiêu hủy tài liệu, chứng cứ…
Theo Ban cán sự đảng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, với chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ yếu thực hiện phối hợp các bộ, ngành trong thu hồi tài sản tham nhũng, thông qua công tác hoàn thiện thể chế về tái cơ cấu, xử lý nợ xấu; thanh tra, kiểm tra, chỉ đạo các tổ chức tín dụng thực hiện các quy định của pháp luật có liên quan, theo thẩm quyền.
Theo đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chú trọng triển khai đồng bộ các giải pháp tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, đẩy mạnh tái cơ cấu và xử lý nợ xấu, tập trung xử lý dứt điểm các tổ chức tín dụng yếu kém, kịp thời phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật xảy ra trong hệ thống. Ðồng thời, thực hiện giám sát công tác thu hồi tài sản thông qua các báo cáo của tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chi nhánh về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm; kịp thời có văn bản chấn chỉnh, phối hợp các bộ, ngành liên quan xử lý vướng mắc của tổ chức tín dụng...
Thúc đẩy mạnh mẽ hợp tác quốc tế
Thực tiễn phát hiện, xử lý tội phạm tham nhũng thời gian qua nổi lên việc các đối tượng có liên quan bỏ trốn, tẩu tán tài sản ra nước ngoài, gây khó khăn cho quá trình điều tra, giải quyết vụ việc, vụ án. Vụ án điển hình gặp khó khăn trong thu hồi tài sản tham nhũng có yếu tố nước ngoài là vụ Giang Kim Ðạt tham ô tài sản với số tiền 18,6 triệu USD. Phần lớn trong số đó đã bị tẩu tán ra nước ngoài. Tuy nhiên, khi Việt Nam yêu cầu tương trợ tư pháp, phía nước ngoài đã đặt ra những yêu cầu gây khó khăn cho quá trình kê biên, tịch thu tài sản tham nhũng.
Ðể góp phần nâng cao hiệu quả phát hiện, xử lý tham nhũng, Ðảng, Nhà nước, các cơ quan chức năng đã tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng. Việt Nam đã đàm phán, ký kết các hiệp định về dẫn độ, chuyển giao người bị kết án phạt tù và phòng, chống tội phạm, tương trợ tư pháp với một số quốc gia; tham gia tích cực, chủ động vào các hoạt động hợp tác phòng, chống tham nhũng của APEC và của nhóm các cơ quan chống tham nhũng ASEAN...
Thanh tra Chính phủ đã ký mới, ký nâng cấp các bản ghi nhớ hợp tác trong lĩnh vực phòng, chống tham nhũng, tăng số lượng đối tác có thỏa thuận hợp tác song phương với Thanh tra Chính phủ thuộc các quốc gia là thành viên của Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng. Bộ Công an đã chủ động, tích cực hợp tác quốc tế trong phát hiện, xử lý tham nhũng, thu hồi tài sản tham nhũng, tham gia các diễn đàn song phương và đa phương, đặc biệt là diễn đàn Liên hợp quốc, Interpol, Aseanpol và thực hiện các công ước, hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam đã tham gia và ký kết. Nhiều vụ án lớn thông qua hợp tác quốc tế đã được khám phá thành công.
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã tiếp nhận và giải quyết nhiều yêu cầu tương trợ tư pháp liên quan đến tội phạm tham nhũng do cơ quan tiến hành tố tụng trong nước lập; tiếp nhận, giải quyết một số yêu cầu tương trợ tư pháp liên quan tội phạm tham nhũng của nước ngoài; chủ động phối hợp các cơ quan điều tra thực hiện các yêu cầu tương trợ tư pháp đối với các vụ án tham nhũng có yếu tố nước ngoài; phối hợp với một số nước để thu hồi tài sản tham nhũng và truy bắt các đối tượng truy nã quốc tế...
Các cơ quan hữu quan tích cực triển khai thực hiện các hiệp định, thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, tham gia có nội dung về thu hồi tài sản tham nhũng; luật hóa các nội dung về minh bạch tài sản, thu nhập theo yêu cầu của Công ước của Liên hợp quốc về phòng, chống tham nhũng; tiếp tục tham gia, ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự giữa Việt Nam với các nước nhằm tạo cơ sở pháp lý, cơ chế phối hợp trong đấu tranh với tội phạm tham nhũng và thu hồi tài sản tham nhũng có yếu tố nước ngoài (vụ Việt Á là một điển hình).
Cần thiết lập các khuôn khổ hợp tác song phương và đa phương, tạo các diễn đàn về thu hồi tài sản tham nhũng. Qua đó thúc đẩy mạnh mẽ các cam kết quốc tế của Việt Nam trong công tác thu hồi tài sản tham nhũng, tìm kiếm cơ hội hỗ trợ đào tạo, tập huấn, học tập nâng cao kiến thức, kỹ năng về thu hồi tài sản tham nhũng cho đội ngũ công chức làm công tác này.
Công tác thu hồi tài sản tham nhũng là khâu quan trọng, đóng góp vào hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Ðó không chỉ là nhiệm vụ riêng của các cơ quan có chức năng thu hồi tài sản tham nhũng, mà là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị; là trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu các cấp; trách nhiệm giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và nhân dân.
Tại Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực vừa qua, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh nhiều bài học quý, có giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn. Một trong những vấn đề được Tổng Bí thư khái quát, đó là, phải kết hợp chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa với chủ động phát hiện, xử lý kịp thời, đồng bộ, nghiêm minh các hành vi tham nhũng; trong đó, phòng ngừa là chính, là cơ bản, lâu dài; phát hiện, xử lý là đột phá, quan trọng. Ðể chủ động, tích cực phòng ngừa, cần phải tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách về kinh tế-xã hội, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh xây dựng Ðảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện.
Khái quát của Tổng Bí thư đã chỉ ra vấn đề căn cốt, là phải xây dựng một nền chính trị liêm chính; một cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để "không thể tham nhũng"; một cơ chế răn đe, trừng trị nghiêm khắc để "không dám tham nhũng"; và một cơ chế bảo đảm để "không cần tham nhũng". Ðó là nhiệm vụ không thể chủ quan, nóng vội, trái lại, phải rất kiên trì, không "ngừng", không "nghỉ", với quyết tâm cao hơn và hành động mạnh mẽ hơn trong giai đoạn mới.
Tiểu Phương